Trang chủ » Posts tagged 'nguyễn huy tưởng'

Tag Archives: nguyễn huy tưởng

NHẬT TUẤN viết về Nguyễn Huy Tưởng:

NGƯỜI “SỐNG MÃI VỚI HỘI NHÀ VĂN”

 

 

Họa chân dung Nguyễn Huy Tưởng trong tập thơ “Chân dung nhà văn”, nhà thơ Xuân Sách hạ mấy câu:

 

Anh chẳng còn Sống mãi

                          Với Thủ đôLuỹ hoa

                          Để những người ở lại

                         Bốn năm sau khóc oà…”

 

Xin lưu ý những từ gch chân là tên những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Tưởng (“Những người ở lại”, “Bốn năm sau”, “Lũy hoa”, “Sống mãi với thủ đô”) viết từ sau khi tham gia cách mạng mà nếu kiên nhẫn đọc cho hết, tuy không “khóc oà” thì trong lòng cũng…sụt sịt.

Trên bầu trời văn học của Đảng, Nguyễn Huy Tưởng được coi là một vì sao sáng, trên chiếu văn của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Nguyễn Huy Tưởng được ngồi dãy đầu, trên cả Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi… chỉ dưới có Trường Chinh và Tố Hữu.

Ông quê ở ngoại thành Hà Nội, sinh năm 1912, xuất thân trong gia đình nhà nho, 30 tuổi mới viết được “Đêm hội Long Trì”, tiểu thuyết “feuilleton” (đăng báo nhiều kỳ) (1942-43), “Vũ Như Tô”, kịch lịch sử “feuilleton” (1943-44), “An Tư”, tiểu thuyết cũng “feuilleton” (1944-45).

“Đêm hội Long Trì” xoay quanh tội ác của Đặng Mậu Lân, em trai Đặng Thị Huệ, vợ yêu của chúa Trịnh Sâm. Chúa có con gái yêu là Quỳnh Hoa cũng phải ép gả cho tên dâm tặc này khiến quận chúa buồn phiền mà chết. Nguyễn Huy Tưởng hư cấu ra một viên tướng tài là Nguyễn Mại vào tận phủ giết Đặng Mậu Lân và được chúa chẳng những tha bổng mà còn khen thưởng trong tiếng hoan hô của nhân dân. “Đêm hội Long Trì”  thực ra là truyện dã sử, viết vội vã để đăng theo kỳ báo, thiếu hẳn  tầm khái quát  để có thể trở thành một tiểu thuyết lịch sử có giá trị văn chương.

Kịch lịch sử “Vũ Như Tô” còn có chất tư tưởng cao hơn “Đêm hội Long Trì”. Kiến trúc sư Vũ Như Tô bị tên hôn quân Lê Tương Dực bắt vào cung ép xây Cửu Trùng Đài cho hắn cùng lũ cung nhân vui chơi, hưởng thụ. Thoạt đầu Vũ Như Tô khước từ không xây vì không muốn mang nghệ thuật phục vụ bạo chúa.  Thế rồi Vũ Như Tô gặp nàng cung nữ Đan Thiềm, nàng này xui rằng “Đây là lúc ông nên mượn tay vua mà thực hành mộng lớn của ông. Vua và đám cung nữ kia sẽ mất đi nhưng tác phẩm của ông sẽ còn lại đến muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện. Hậu thế sẽ xét công cho ông và nhớ ơn ông mãi mãi…”.  Thế là nghe lời nàng Đan Thiềm, Vũ Như Tô lao vào xây Cửu Trùng Đài với niềm say mê nghệ thuật không kể đến bao nhiêu đau thương chết chóc của hàng vạn con người. Rồi nhân dân nổi lên trừng trị hôn quân, đốt cháy Cửu Trùng đài đẩy Vũ Như Tô vào cơn mê hoảng: “Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài…”.  Bi kịch của Vũ Như Tô thực ra chỉ là bi kịch của một kiến trúc sư muốn mượn tay bạo chúa để xây dựng một công trình nghệ thuật để lại cho hậu thế, lấy cứu cánh là “cái đẹp” biện minh cho phương tiện “dã man”. Bởi  thế hình tượng Vũ Như Tô chỉ là một “ca đặc biệt” của người kiến trúc sư chứ chưa khái quát được thân phận người nghệ sĩ khao khát sáng tạo trong một xã hội hà khắc, tự do bị bóp nghẹt; giá trị nghệ thuật của kịch Vũ Như Tô chính vì thế mà bị hạn chế.

Tiểu thuyết lịch sử “An Tư” lại mở ra một không gian rộng hơn. Đó là thời vua Trần Thiệu Bảo, quân Nguyên sang cướp nước ta. Cuốn truyện đề cập tới hầu hết các nhân vật lịch sử trong thời kỳ này: Hưng Đạo vương Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản … các sự kiện lịch sử như Hội nghị Diên Hồng, trận chiến trên sông Bạch Đằng… về phía quân Nguyên thì có Thoát Hoan, Toa Đô, Ô Mã Nhi… và hai nhân vật chính là công chúa An Tư và tướng Chiêu Minh Vương Trần Thông. Hai người này vốn yêu nhau và đã đính hôn nhưng Thoát Hoan mang 50 vạn sinh mạng tù binh để đánh đổi lấy An Tư. Triều đình buộc phải chấp thuận. Thế là nàng công chúa tuyệt sắc, tài hoa và giàu lòng yêu nước đành gạt nước mắt vĩnh biệt người yêu để sang trại quân Nguyên làm vợ kẻ thù. Tướng Trần Thông trúng tên chết ngay trước ngày quân ta đại thắng, công chúa An Tư hổ thẹn không muốn nhìn mặt ai lẳng lặng nhảy xuống sông tự vẫn. Cuốn truyện dầy có 115 trang mà dàn trải đủ các nhân vật, các sự kiện trong một thời kỳ chống ngoại xâm hào hùng nhất của dân tộc đồng thời lại muốn đi sâu vào bi kịch cá nhân của công chúa An Tư và tướng Trần Thông, bởi thế người đọc thấy rõ sự sơ lược và sự tuỳ tiện trong việc đưa các tình tiết lịch sử vào truyện, – dường như có cũng được mà không có cũng không sao. Tác phẩm lại vẫn dừng ở truyện dã sử hơn là một pho tiểu thuyết lịch sử như các nhà phê bình cách mạng gán cho nó.

Vậy là sự nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Tưởng thời trước cách mạng chỉ có 3 tác phẩm loại “thường thường bậc trung” như đã nêu trên, thiếu hẳn “một cuốn để đời” như  Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan… hoặc cả một sự nghiệp đồ sộ như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…

Vốn tham gia cách mạng từ rất sớm, năm 1942, Nguyễn Huy Tưởng đã gia nhập tổ chức Văn hoá Cứu quốc  của Đảng cộng sản, sang năm 1945 được  cử đi dự Đại hội Tân Trào, năm 1946 được  kết nạp Đảng, được vào Quốc hội, năm 1949 được cử vào Tiểu ban văn nghệ trung ương của Đảng… Tham gia chặt chẽ vào các công tác của cách mạng như vậy, Nguyễn Huy Tưởng gần với nhà chính trị hơn là nhà văn.

Ấp ủ chủ đề Hà Nội kháng chiến, Nguyễn Huy Tưởng viết khá nhiều về đề tài này nhưng đều thất bại. Năm 1948, ông viết kịch “Những người ở lại” mô tả gia đình bác sĩ Thành với những quan hệ tình ái giữa bác sĩ Thành và Ngọc Cẩm rồi Ngọc Cẩm lại “quan hệ” với Phủ Dương… làm người đọc thấy vở kịch của ông chịu ảnh hưởng quá rõ của vở kịch “Lôi Vũ” của Tào Ngu. Chính Nguyễn Huy Tưởng sau này cũng thừa nhận về giá trị của vở kịch “Những người ở lại”: “Những chuyện nhỏ gia đình, công chúng ngày nay đi xem đều thờ ơ lãnh đạm. Kịch “Những người ở lại” chỉ nói lên được cái băn khoăn của vài cá nhân, không nói lên được những băn khoăn của quần chúng cho nên đối với công chúng bấy giờ, kịch của tôi đã đặt ra những vấn đề không quan thiết tới vận mệnh của số đông…”

Không nói được những băn khoăn của đám đông tức là gián tiếp thừa nhận thiếu sự khái quát. Chính vì căn bệnh đó mà chỉ một năm sau viết “chuyện nhỏ gia đình” trong “Những người ở lại”, năm 1950, Nguyễn Huy Tưởng đã mở rộng đề tài sang viết về cả một vệt  chiến trường. Tập “Ký sự Cao Lạng” nhằm phản ánh “Chiến dịch Biên giới” từ lúc chuẩn bị chiến trường, chiến dịch mở màn, các trận đánh quyết định, những ngày truy kích giặc và niềm vui chiến thắng của quân và dân. Tất cả diễn ra khá gấp rút nên Nguyễn Huy Tưởng đành phải dùng lối viết “ghi chép” chứ chưa hẳn đã là “ký sự”. Chẳng hạn bức tranh về tinh thần anh dũng của quân ta:

“Những báng súng đập nhau chan chát. Lực dằng  khẩu súng trong tay một thằng Đức cao lớn trên miệng hầm. Cả hai ngã lộn xuống hầm, ôm nhau, đấm nhau, cắn nhau. Lực gỡ ra được, ngồi trên ngực nó, nghiến răng bóp cổ thằng giặc nhầy nhụa mồ hôi…”

Hoặc cảnh đoàn dân công tải đạn ra chiến trường được khắc hoạ nặng về “ca ngợi tình đoàn kết giữa các dân tộc chung một quyết tâm tiêu diệt kẻ thù”:

“Mấy chị Mán đỏ khăn áo sặc sỡ, trán cạo nhẵn, nhễ nhại mồ hôi  đang còng lưng đeo sọt đi giữa đám đông. Những chị Nùng áo ngắn tay rộng. Những chị Thổ tay chẽn áo dài. Những anh Mán cao lớn để hồng mao. Số đông áo chàm. Khi tản, khi chụm, khi lố nhố dưới thung lũng, khi thoăn thoắt lên đèo cao, khi tản vào rừng cây chuyển động, khi xoá đi, hoà vào những hàng dài đá xám lởm chởm bên đường, thỉnh thoảng bật lên vải chàm trắng của người đàn bà Mán Lài áo pha mầu đất,váy nhiều nếp xùm xoà…”

“Các chị đi hành quân, dài và lủng củng, ngoằn ngoèo, nối rừng nọ với rừng kia, đèo này với đèo khác, ngày đêm không nghỉ…”

Cứ như thế, toàn bộ tập bút ký giống như những “ký hoạ” thiên về nhãn quan phục vụ chính trị chứ  ít đi sâu vào tâm tư, tình cảm cá nhân để từ đó phảng phất sắc màu thân phận con người trong chiến tranh.

Tập “Ký sự Cao Lạng” dầy hơn trăm trang được hoàn thành ngay trong không khí chiến thắng của chiến dịch Biên giới tháng 9/1950, bởi thế nó được coi như một minh chứng mẫu mực về “lý thuyết sáng tác kịp thời” của Đảng. Quả thực đi sâu vào nội dung “Ký sự Cao Lạng”, người ta nhận thấy ngay “tính kịp thời” của nó. Với cảm hứng đầy “hồ hởi” và phấn khởi, Nguyễn Huy Tưởng phác hoạ lại toàn bộ diễn biến của chiến dịch từ lúc chuẩn bị tới khi kết thúc lúc quân ta thắng lớn, đánh tan cả hai binh đoàn thiện chiến Pháp bắt sống hai quan năm của Pháp là Charton và Lepage giải phóng cả một giải biên giới Từ Cao bằng tới Lạng Sơn.

“Ký sự Cao Lạng” gồm 6 phần trong đó 2 phần đầu mô tả không khí chuẩn bị nhộn nhịp của quân dân Cao Lạng “tự vắt mình để dốc hết người và của vào trận đánh”, dù hết sức khó khăn gian khổ nhưng đâu đâu cũng “thấy hiện lên tinh thần phấn khởi, hào hứng, đâu đâu nghe những tiếng hò hẹn, động viên nhau “quyết giật giải của Hồ Chủ tịch, quyết thi đua lập công, trận này phải thắng…”. Phần thứ ba ghi lại cuộc chiến đấu mở màn, trận công kiên đồn Thất Khê, chủ nghĩa anh hùng cách mạng chiến đấu dũng cảm và nhiều gương anh hùng đã xuất hiện: Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai, La Văn Cầu chặt tay bị thương cho khỏi vướng víu xông lên đánh bộc phá tạo cửa mở cho xung kích hạ đồn Đông Khê. Cho tới ngày nay chuyện anh hùng La Văn Cầu tự chặt tay mình vẫn còn được nhắc tới, riêng chuyện Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai thì không, có lẽ vì sự tích phi thường này phải nhường cho anh Bế Văn Đàn người dân tộc thiểu số, chắc để cho phù hợp với chính sách dân tộc của Đảng trong khen thưởng thành tích chiến đấu. Điều này cho thấy những chất liệu Nguyễn Huy Tưởng viết trong “Ký sự Cao Lạng”  thường được lấy từ …báo cáo thành tích thi đua của các đơn vị bộ đội và vì phải phục vụ cho công tác tuyên truyền nên nó thường được thêm mắm muối và phóng đại. Gương anh “Trần Cừ lấp lỗ châu mai” cũng tương tự như gương em bé đuốc sống Lê Văn Tám tẩm dầu vào người chạy vào đốt kho xăng Nhà Bè do nhà sử học Trần Huy Liệu “sáng tác” ra để phục vụ công tác tuyên truyền theo sự xác nhận mới đây của Giáo sư Phan Huy Lê. Phần 4 và 5 ghi lại cuộc vận động chiến của bộ đội đuổi theo và nghiền nát hai binh đoàn thiện chiến của Pháp tại vùng núi Khua Luông, Quý Châu. Phần 6 ghi lại không khí chiến thắng tại vùng Cao Lạng trong đó nổi bật hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị quân đội “Bác không đứng trên lễ đài. Bác đi thẳng xuống bãi cỏ. Bác không đội mũ. Mặt Bác sạm phong trần. Đầu hoa râm đã bạc nhiều. Bác mặc áo hở ngực. Quần bác nhàu, chân bác đi dép cao su trắng, đứt quai sau. Bác đến với bộ đội như cha đến với con: vui vẻ, thân mật, tạo một nguồn phấn khởi mạnh mẽ…”

Đọc tới chi tiết tác giả ca ngợi “chiếc dép cao su trắng đứt quai sau” của bác Hồ, người ta mới hiểu vì sao trong tất cả những bộ tuyển tập và toàn tập về Nguyễn Huy Tưởng và trong tất cả những bộ lịch sử văn học, bao giờ người ta cũng nhắc tới “Ký sự Cao Lạng”   như là một thành tựu không chỉ của riêng Nguyễn Huy Tưởng mà còn là của chung nền văn học cách mạng. “Hình tượng bác Hồ” không phải là hiếm hoi trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Tháng 9/1950 ông hoàn thành “Ký sự Cao Lạng” thì trước đó vài tháng vào dịp “sinh nhật Bác 19 tháng 5” ông có bút ký “Hồ Chủ tịch năm nay”, sau này cũng được đưa vào các bộ tuyển văn học. Bài viết kể lại nhân ngày sinh nhật Bác tác giả vinh dự được tới thăm nhà Bác ở trong rừng  chiến khu Việt Bắc. Ngôi nhà giữa rừng được tác giả diễn tả:

“Một con đường sạch và dài dẫn tôi vào. Tôi có cảm tưởng đi giữa một công viên Hà Nội với rất nhiều péc-gô-la. Sự thực hai bên tôi toàn là rau rền, rền xanh, rền tía, rền đỏ; giàn toàn thị là giàn mướp, giàn bầu. Một vài giàn mướp đã trổ hoa vàng, bướm lượn tíu tít. Máy bay không làm vẩn trước sau lễ chúc thọ. Chiều hôm nay bình tĩnh lắm. Sau một trận mưa, trời bắt đầu hửng nắng. Ánh hồng trên các thân cây…”

Sắp được đặt chân vào nhà Bác, tâm sự của tác giả thật phức tạp:

“Tôi lâng lâng vui, đồng thời cũng ngài ngại, cái ngại dĩ nhiên của một người sắp đến trước một vĩ nhân. Tôi đã được gặp Cụ ở Bắc Bộ phủ, ở các cuộc mít tinh, ở mấy cuộc hội nghị, những buổi dạ hội tại Nhà hát Lớn Thủ đô. Nhưng từ ngày kháng chiến, tôi không được gặp Cụ và bị kích thích mạnh mỗi khi nghe các bạn kể lại những chuyện về Cụ: Cụ đánh bóng vô lê, Cụ tăng gia. Cụ đi kinh lý mặt trận. Cụ đem cái vui và niềm tin đến cho bao nhiêu hội nghị. Cụ tiễn chân các cán bộ tới thăm Cụ một buổi chiều lẫn lộn cây cối và mưa gió của chiến khu …Cho nên lần này đi chúc thọ Cụ, tôi vẫn có cái náo nức của những buổi đầu tiên gặp Cụ…”

Rồi Nguyễn Huy Tưởng nhớ lại kỷ niệm một đêm ở hội nghị dân quân, các nhà văn, nhà báo xúm nhau lại để viết những chuyện anh hùng của bộ đội và nhân dân, những chuyện tàn ác của giặc Pháp mà các đại biểu đã kể lại trong hội nghị. Mọi người hăm hở viết suốt đêm trắng, hoàn thành “năm chục truyện căm thù và anh dũng” để kịp tinh mơ sáng hôm sau đưa cho người du kích cưỡi ngựa chạy đi …dâng Bác. Sau cùng Nguyễn Huy Tưởng cũng kể tới giây phút đặt chân vào nhà Bác:

“Vườn rền dẫn đến một khu rất đông người, nhiều cây và rất nhiều khoảng nắng. Chỗ nào cũng có thiếu nhi. Chúng nhảy tung tăng. Chỉ nhìn theo chiều mắt lóng lánh của chúng cũng biết Cụ ở chỗ nào. Và tôi gặp Cụ. Một cái bắt tay. Chụp ảnh. Những nụ cười chung quanh. Tôi trở về với gia đình…”

Khi mọi cảm giác hồi hộp đã tan biến, Nguyễn Huy Tưởng đã tưởng như ở nhà mình, ông mới tả Bác:

“Trán Cụ chiều nay không có nét răn. Nước da hồng sáng. Bộ áo kaki cũ và mềm, phơn phớt trắng hồng càng tôn nước da và làm cho cử chỉ thoải mái, thanh niên. Có một cái gì quyến rũ trong đôi mắt thẳm sâu, phản ánh những khóc cười của dân tộc…”

Quả thực những văn thi sĩ quán quân về ca ngợi Bác như nhà thơ Tố Hữu “Bác ơi trán bác mênh mông thế ?” hoặc như  nhà thơ Chế Lan Viên gọi Bác là “Người đi tìm hình của nước” …cũng chưa ai bằng được Nguyễn Huy Tưởng có một chi tiết thật đắt nhìn thấy “sự khóc cười  của dân tộc” trong đôi mắt sâu thẳm của Bác.

Tiếp đến Nguyễn Huy Tưởng tả phòng khách của Bác:

“Bao vây Hồ Chủ tịch là cả Việt Nam thu gọn do những đại biểu muôn vẻ muôn mầu….”

Trước hết phải kể đến cán bộ cao cấp: Cụ Tôn Đức Thắng “người công nhân lão đại”, ông Trường Chinh “nhỏ nhắn nói chuyện vui vẻ”, ông Phan Anh thấp, vững “đang nghĩ tới một tập Kiều tặng Cụ”,  ông Hoàng Quốc Việt “nhanh nhẹn như một gia trưởng”…Rồi đến đại biểu thanh, công, phụ, trước hết là… thiếu nhi. “Thiếu sinh quân. Thiếu nhi nghệ thuật. Thiếu nhi địa phương. Cháu nhìn Bác không chớp mắt. Cháu bên vai bác nũng nịu. Cháu ngồi dưới chân Bác, nghểnh cổ há mồm. Cháu biếu bác một bài hát. Cháu dâng bác một cây sáo mộc…”. Rồi đến anh hùng lao động, anh hùng của vùng tạm bị giặc chiếm… “Lá cờ đỏ thêu chỉ vàng “vạn thọ vô cương” chói lọi gian phòng…”

Nguyễn Huy Tưởng tả Bác vui với thiếu nhi thì thấy Bác giản dị, gần gũi  nhưng khi nói tới lá cờ “vạn thọ vô cương”  thì lại thấy Bác như một… Hoàng Đế. Không hiểu “lá cờ đỏ thêu chỉ vàng” này có thật không hay là Nguyễn Huy Tưởng đã… bịa ra để “nịnh khéo” Bác, có điều từ đầu đã ca ngợi Bác là “giản dị vô cùng” vậy sao còn bầy đặt ở phòng Bác một lá cờ viết chữ Hán rắc rối vậy thì quần chúng công nông hiểu làm sao?

Rồi cụ Hồ ngồi nói chuyện với một anh chiến sĩ cụt tay trong đại đoàn 308. Nguyễn Huy Tưởng viết:

“Tôi không nghe rõ câu chuyện giữa Cụ và người chiến sĩ, chỉ thấy sau lưng Cụ, cửa sổ tròn, để lọt một mảnh trời sao lấp lánh…”

Tới đây người ta thấy được cái “thủ pháp nghệ thuật” hoặc nôm na là “cái mẹo ca ngợi” của Nguyễn Huy Tưởng. Khi vẽ chân dung bác Hồ ông thường gắn với khi thì “sự khóc cười của dân tộc” khi thì cả một trời sao…

 

Cuộc chúc thọ bác Hồ tạm lắng xuống để nhà văn Nguyễn Huy Tưởng có thể nhìn thấy cả một mảnh trời sao sau lưng bác, mãi đến khi “ông Trần Văn Giàu  đọc những điện văn của các chính phủ, đoàn thể các nước bạn chúc mừng ngày lục tuần đại khánh của Cụ, phòng họp mới trở lại cái tíu tít ban nãy”. Lúc này người ta nghe thấy “những tên Staline, Hồ Chí Minh quyện nhau trong một tinh thần quốc tế mà cảnh sum vầy ở góc trời này, hôm nay càng làm bật ý nghĩa thâm trọng”,  nghe thấy “những lời hô khẩu hiệu”, “bài hát Hồ Chí Minh muôn năm cất lên vang lừng”…Hoá ra người vinh dự nhất được cụ Hồ bắt tay trong buổi chúc thọ lại là linh mục Phạm Bá Trực, ngày đó còn đang thay mặt Quốc hội.

“Cụ bước lại bắt tay cha Trực rồi nói:

“Tôi bắt tay Quốc hội tức là bắt tay toàn dân…”

Chỗ này mới thấy tính “mặt trận” của cụ Hồ – cụ bắt tay một linh mục làm hả dạ giáo dân nhưng cụ lại nói cụ bắt tay “Quốc hội”; như vậy mấy ông “sư quốc doanh” cũng không có gì phải ghen tị.

Được “bác Hồ bắt tay”, cha Trực sướng quá, “hát ngay một đoạn thánh ca mừng Cụ”:

“O Remus

Pro Domino notio Ho Chi Minh…

Dominus conservet eum, et

Vìvifice sum et Beetam…”

Linh mục hát bằng tiếng la tinh được tác giả dịch ra như sau:

“Hỡi các giáo hữu ta hãy nguyện chúc cho vị Chủ tịch quý mến của chúng ta Hồ Chí Minh, xin Thiên Chúa hằng gìn giữ cho Người, xin Thiên Chúa hãy ban cho Người hưởng trường thọ và được hạnh phúc thật trên cõi đời, xin Thiên Chúa hằng hộ vực và che chở Người cho khỏi mọi mưu chước của kẻ thù của Người (cũng là kẻ thù chung của Nhân loại).

Chẳng hiểu tiếng tây tiếng u ra sao, chỉ thấy nhà văn Nguyễn Huy Tưởng dịch ra thành bài “lãnh tụ ca” bốc Người lên tầm cỡ thay mặt cho nhân loại mới ghê. Ông lại còn tả tiếng hát của linh mục:

“Tiếng hát âm vang trang nghiêm. Phòng thốt nhiên im lặng phảng phất  một cái gì cao rộng, bao trùm. Cụ nắm tay cha Trực rất lâu…”

Nhiệt tình ca ngợi lãnh tụ của cha Trực  đã được  đền đáp kịp thời, được “Cụ nắm  tay rất lâu”, vậy hẳn là một ân sủng lớn đối với linh mục.

Sau người già ắt phải đến con nít.

“Bác lại ngồi giữa các cháu”  để coi “dạ hội nhạc kịch do các Thiếu sinh quân và Thiếu nhi nghệ thuật trình bầy”. Lẽ ra lúc này Bác phải khen ngợi cháu này hát hay, cháu kia múa giỏi, lạ thay “lúc buông màn tôi nghe Bác nói với các huynh trưởng của hai đoàn: đừng để các cháu đói. Phải lo  cho các cháu được học, tiến bộ…”. Rất có thể bác Hồ sẽ ra chỉ thị cho huynh trưởng thiếu nhi như vậy, nhưng chắc chắn phải vào lúc “khai hội nhận chỉ thị” chứ không phải lúc vừa coi xong các cháu biểu diễn như thế. Chỗ này tác giả “hơi  vụng” trong ca ngợi đức độ của bác Hồ.

Rồi sau cùng “ân sủng của bác” cũng tới với nhà văn Nguyễn Huy Tưởng:

“Buổi chiều tôi đang ăn cơm, Cụ đến sau lưng, đặt tay lên vai hỏi:

“ Chú ăn được mấy bát ?”.

Chúng tôi hỏi lại Cụ, Cụ nói:

” Tôi ăn được  hai bát…”

Tôi se se trong lòng…”

Nhà văn ngậm ngùi thương Bác “ăn có hai bát cơm” nhưng không dám nói ra. Rồi trước khi trở về đơn vị, nhà văn được cụ Hồ nhắc nhở về 4 điểm thi đua giữa các …báo: “đúng chính trị – văn chương hoạt bát – ít tếu – hình thức giản đơn”

Cho tới ngày nay, hơn nửa thế kỷ sau, báo chí Việt Nam về căn bản vẫn  tuân theo những chuẩn tắc trên, đặc biệt là “đúng chính trị” – tức là phải tránh né những vấn đề nhạy cảm, phải tuân thủ sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, chỉ được phép đưa tin có lợi cho Đảng, cho “ổn định chính trị” của Đảng.

Sau cùng đã tới lúc nhà văn phải chia tay cụ Hồ với cảm giác được  ông diễn tả: “Nhiều tiếng nói trong tôi một lúc: Phố Lu – Bắc bộ phủ – Ba Đình – Bác – Chú – Tổng phản công – Tôi ăn được hai bát. Cụ sáu mươi. Cụ đã sáu mươi…”.

Đúng là một thứ tình cảm “đa chiều”, trong đó nổi lên tình cảm thương “cụ Hồ ăn được hai bát cơm”  và lo lắng “Cụ đã sáu mươi…Cụ đã sáu mươi…”. Ôi ước gì, Cụ sống lâu vài trăm tuổi. Đó là mơ ước trong sâu thẳm nhà văn và ta đành phải nói ra hộ ông.

Bài báo “Hồ chủ tịch năm nay”  được Nguyễn Huy Tưởng ghi ngày viết đúng vào sinh nhật lần thứ 60 của cụ Hồ : “19-5-1950”.

55 năm rồi, hơn nửa thế kỷ  đã trôi qua, một tháng nữa lễ “Kỷ niệm 105 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại” lại diễn ra rầm rộ trên khắp đất nước Việt Nam. Hoá ra ở cụ Hồ cái gì cũng vĩ đại, cũng kiệt xuất, cũng thiên tài cả, chỉ trừ có mỗi tuổi thọ của cụ là cũng như người đời thôi. Ông nhà văn hình như cũng cảm thấy điều đó nên kết thúc bài viết người ta thấy rõ ông thật xót xa trong lòng.

Trong sự nghiệp văn học của Nguyễn  Huy Tưởng, vở kịch “Bắc Sơn” được công diễn năm 1946 và được  báo chí cách mạng rối rít khen  ngợi : “Bắc Sơn ra đời đã đặt nền móng cho một nền kịch mới … Bắc Sơn đã cảnh tỉnh cho những người còn nghi ngờ kịch cách mạng  và xứng đáng là vở kịch cách mạng thành công nhất từ trước tới nay …”  ( Báo Vì nước – 1946).

Kịch “Bắc Sơn” viết thế nào mà được báo chí ca ngợi ghê gớm vậy?

Kịch lấy cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn làm bối cảnh, thời gian vẻn vẹn có mấy tháng từ lúc khởi nghĩa nổ ra (27-9-1940) cho tới lúc du kích thất bại phải bỏ Vũ Lăng rút lên rừng (đầu 1941). Diễn tả cuộc xung đột giữa hai phe cách mạng và phản cách mạng qua đó khẳng định cách mạng nhất định thắng, báo hiệu cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sẽ nổ ra.

Câu chuyện kịch “Bắc Sơn” xoay quanh “hai phe” đối nghịch trong gia đình người dân tộc Tày – ông cụ Phương, vợ, con trai, con gái và con rể. Cụ Phương và con trai là Sáng hăng hái tham gia cách mạng. Cô con gái là Thơm và mẹ thuộc phe lừng chừng đứng giữa. Chàng rể, chồng của Thơm là Ngọc thuộc phe đối lập, từ chỗ chế giễu cách mạng đến chỗ dẫn đường cho Pháp đàn áp du kích và trở thành một tên Việt gian nguy hiểm. Sáng bị Pháp bắn chết gây cho cụ Phương hiểu lầm bà vợ dắt Pháp về bắn con bèn rút súng bắn vợ. Rất may cô con gái Thơm xông vào gạt ra cứu sống mẹ. Cụ Phương sau khi bắn chết một tên Pháp cũng bị tử thương. Có hai cán bộ cách mạng  là Thái, Cửu chạy vào nhà Thơm trốn Pháp được cô dấu trong buồng, chờ chồng bỏ đi, Thơm mới chỉ đường cho cán bộ chạy thoát. Sau Thơm theo cách mạng, lên căn cứ tiếp tế muối và báo tin Pháp sắp vây lùng. Vừa lúc đó Ngọc, chồng Thơm mò tới bị Thơm dõng dạc tố cáo bộ mặt Việt gian của chồng. Ngọc rút súng bắn vợ. Nhờ Thơm, quân du kích diệt được giặc Pháp….

Vở kịch “Bắc Sơn” chia đôi hai loại người rạch ròi: cách mạng và phản cách mạng – ngay cả trong quan hệ vợ chồng, người ta cũng có thể bị phân hoá thành hai phe:

THƠM ( nói với chồng): “Thôi, đến lúc này tôi cũng chẳng còn úp mở làm gì nữa. Tôi biết anh lắm rồi… Anh giấu ai chứ giấu tôi thế nào được ? Ba tháng nay tôi ăn chung ở đụng với anh tôi khổ sở biết là chừng nào. Anh giết cha tôi, anh giết em tôi, anh làm tan nát cửa nhà tôi, anh làm hại bao nhiêu người, anh tưởng tôi không biết nhục à ? Vợ một thằng chó săn (khóc). Sao tôi lại theo anh kia chứ? Sao tôi với anh ở lại Bắc Sơn kia chứ ? (khóc nức nở) Anh có phải là người nữa không? Phải, tôi giúp quân du kích đấy; tôi biết tin anh dắt Tây đến đánh úp, tôi đi báo quân du kích đấy. Tôi đố anh phá nổi quân du kích. Mở mắt ra! Nó sai như con chó, nó khinh như con chó mà không biết đời à? Các ông đồng chí đâu! Bắt lấy nó. Nó đây rồi…Nó đây rồi… đừng thương nó…”

Thế là cô vợ hô hoán lên cho du kích chạy tới bắt chồng…

Anh chồng – tên Ngọc, không còn tin vào mắt vào tai mình nữa. Chính cô vợ chung chăn chung gối của mình lại dâng mình cho cách mạng.

NGỌC – (mất sắc)Con kia, mày định giết tao phải không ?

THƠM (lăn xả vào Ngọc hú lên): Anh em ơi, nó đây rồi. Chú ơi…ông Thái ơi…”

Thế là chồng rút súng bắn vợ và liền đó bị Tây… bắn nhầm chết. Tuy nhiên, sau đó cô vợ – Thơm, không chết, cô vẫn sống để chỉ vào xác chồng mà căm thù:

“ Chính nó bắn tôi  (chỉ về phía Ngọc) Thằng  Ngọc… Chúng nó bắn nhầm phải thằng Ngọc. Không biết nó đã thấy nhục chưa? Chỉ tiếc là mình không được xử tội nó…”

Rồi quên cả đau đớn và cũng chẳng hiểu sao lúc này cô nàng lại nghĩ tới…bộ đội:

“Tôi chết mất…Quân ta thế nào ?”

Và rồi cô nàng như mê sảng hướng ra mặt trận:

“Cho tôi đi xem đi. Chú tôi với em Sáng đang bắn chúng nó đấy. Trường Vũ Lăng ta lại chiếm được kia. Đi mau lên các ông. Các ông cố lên nhớ. Mau lên, có phải cờ ta đấy không ? Được thật rồi…”

( Thơm lả ra sau sự kích thích mãnh liệt của tinh thần. Tiếng hát vang lừng hùng dũng).

Than ôi, ông Nguyễn Huy Tưởng ép uổng “bông hoa rừng” giác ngộ cách mạng và bày tỏ cái sự giác ngộ ấy một cách lố bịch đến thế thì thôi. Giữa đôi vợ chồng chẳng hiểu sao không mảy may chút nghĩa tình phu thê mà chỉ có “cách mạng” hoặc “phản cách mạng”. Giả dối đến thế không hiểu trong lòng ông có thấy xấu hổ khi đặt bút viết ?

Kịch “Bắc Sơn” đã đặt “nền móng cho kịch cách mạng” như thế đấy. Nó được đám văn nô bốc lên mây xanh. Nguyễn Đình Thi reo hò:

“Viết Bắc Sơn, Nguyễn Huy Tưởng muốn bày giãi lòng tin chắc của mình (vào cách mạng). Không, nghệ thuật với cuộc sống không thể nào rời nhau, nhất là trong lúc này… Kịch Bắc Sơn đưa lên sân khấu những sự việc mới, những đám đông, những con người mới của cách mạng: người cán bộ, ông già nông dân khẳng khái, anh du kích, bà cụ có tấm lòng yêu nước trung thực. Đấy là điều đáng chú ý nhất và cần nhấn mạnh nhất…” .

Nhà phê bình mác-xít hơn cả ông Trường Chinh là giáo sư Hà Minh Đức cũng bốc thơm:

“Qua vở kịch Bắc Sơn, lần đầu tiên Nguyễn Huy Tưởng xây dựng thành công những con người mới xuất thân từ quần chúng lao động. Phần lớn họ là những người nghèo  khổ  bị áp bức, vùng lên làm chủ vận mệnh mình…”

Sự thực, đó là một bước lùi vĩ đại, trong khi kịch nói thế giới từ thời Shakespeares đã đưa lên sân khấu những nhân vật khổng lồ với tính cách phong phú và phát triển phức tạp, thì ở Việt Nam vào những năm sau đại chiến thế giới thứ hai, người ta mới bắt đầu xây dựng một thứ sân khấu mà tính cách nhân vật bị vót nhọn chỉ còn nhân vật “ta” hoặc “địch”. Nền kịch cách mạng này với “phương pháp sáng tác “ như vậy, nhất định sẽ đưa sân khấu tới… tắc tị. Quả nhiên một loạt vở kịch dẫm theo vết Nguyễn Huy Tưởng như “Chị Hoà” của Học Phi, “Bức tranh mùa gặt” của Trần Vượng, “Tiền tuyến gọi” của Trần Quán Anh sau này …đều mau chóng bị vứt vào sọt rác của lịch sử.

Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn được Đảng khen luôn luôn bám sát đời sống, tác phẩm nóng bỏng tính thời sự. Quả vậy, sau “Ký sự Cao Lạng”, Nguyễn Huy Tưởng đi theo đoàn cải cách ruộng đất xuống ba cùng với bần cố nông và có ngay tiểu thuyết  “Truyện anh Lục” (1955) viết về người nông dân bị địa chủ, cường hào bóc lột đến tận xương tuỷ, nay nhờ có Đảng đã vùng lên đập tan giai cấp bóc lột, làm chủ cuộc đời mình. Tác phẩm… dở đến nỗi bị nhà phê bình Phan Cự Đệ chê là…. “tác phẩm còn lẫn lộn giữa việc tường thuật về người thật và xu hướng tiểu thuyết hoá, nhưng điều đáng quý là sự nỗ lực của Nguyễn Huy Tưởng đi vào một đề tài mới mẻ với ý thức phục vụ sát yêu cầu cách mạng…”. Thế thôi, chỉ là phục vụ cách mạng chứ đâu phải làm văn chuơng? Thực ra “húc” vào đề tài cải cách ruộng đất nhà văn nào cũng phải bịt mắt bưng tai để nói theo giọng điệu tuyên truyền của cán bộ Đội cải cách, bởi thế các tác phẩm viết ra đều “chết non” như “Tranh tối tranh sáng”, “Hỗn canh hỗn cư” của Nguyễn Công Hoan, “Mẹ con đồng chí Chanh” của Nguyễn Đình Thi, “Con trâu” của Nguyễn văn Bổng, “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài…

Sau hoà bình năm 1954, các nhà văn được  Đảng yêu cầu viết về sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc, Nguyễn Huy Tưởng đã hưởng ứng nhiệt tình, viết ngay tiểu thuyết “Bốn năm sau”  (1959). Cuốn truyện xoay quanh công cuộc xây dựng lại Điện Biên Phủ, nơi chiến trường vừa lặng im tiếng súng, vẫn còn chằng chịt giây thép gai và bom mìn để thử thách tinh thần người lính phục viên, rời tay súng, cầm tay cầy. Cuốn sách  được  các nhà phê bình của Đảng “nâng bi” là “Bốn năm sau” mang theo cảm hứng mới phơi phới tinh thần lạc quan cách mạng của những con người làm chủ hiện tại và tương lai…”.  Có lẽ vì cái cảm hứng đó mà không đầy “bốn năm sau” ra đời, tiểu thuyết “Bốn năm sau” đã chết ngóm chẳng còn ma nào muốn đọc.

Là nhà văn đi hàng đầu theo chủ trương “sáng tác” kịp thời của Đảng, Nguyễn Huy Tưởng luôn luôn được báo chí bốc thơm theo kiểu:

“Chất hiện thực trong những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ngày càng được tăng cường qua những đợt đi thực tế, tham gia chiến dịch, những ngày lăn lộn với phong trào. Anh thấy rõ cuộc sống mới không ngừng phát triển. Đang từng ngày thay da đổi thịt. Ở đâu trong cuộc sống cũng phấp phới cái “cánh bay của một thứ lãng mạn cách mạng ngay trong những công việc hàng ngày”. Đó chính là cơ sở khách quan để nảy sinh chất lãng mạn cách mạng trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng…”  

Tuy nhiên  sự “đoản thọ” của những sáng tác kịp thời kiểu như “Ký sự Cao Lạng”, “Truyện anh Lục”, “ Bốn năm sau”…  cũng làm Nguyễn Huy Tưởng phải nghĩ ngợi, nhất là văn chương của ông nâng bi cách mạng quá đà đến độ nhà phê bình “bảo hoàng hơn cả nhà vua” Phan Cự Đệ cũng phải than:

“Nguyễn Huy Tưởng đến với cuộc đời mới với bao cởi mở và tin cậy, không có những khoảng cách giữa nhà văn và cuộc sống qua những dằn vặt cá nhân, những ngại ngùng xa lạ …Nguyễn Huy Tưởng thích khai thác những mặt đẹp của đời sống, cái đẹp của con người mới đang sáng tạo nên những trang sử của dân tộc. Anh nhìn cuộc sống một cách xuôi chiều và có phần lý tưởng hoá. Nguyễn Huy Tưởng chưa thấy hết những mặt phức tạp của cuộc đấu tranh xã hội nên trong một số trường hợp, cách nhận thức và giải quyết vấn đề của anh hời hợt và dễ dãi…”

Tóm lại nói theo ngôn ngữ thời nay là anh viết quá…phải đạo, quá an toàn, luôn luôn đeo chữ “thọ” cho ngòi bút rồi mới tung hoành trên trang giấy. Sau cuốn “Bốn năm sau”, Nguyễn Huy Tưởng hiểu rằng “sáng tác kịp thời” chỉ là sự xui dại của Đảng muốn nhà văn phục vụ chính trị hiệu quả hơn, tức thời hơn và chỉ đẻ ra thứ văn chương “báo tường”. Từ đó ông bỏ hẳn “những chuyến đi thực tế” nhằm cho ra những “sáng tác kịp thời”, bỏ qua những “đề tài khôi phục kinh tế” nóng hổi tính thời sự, ông trở lại đề tài quá khứ với độ lùi đủ để có thể nhìn lại một cách bao quát, tỉnh táo từ đó xây dựng nên một tiểu thuyết sử thi, đồ sộ vừa đi sâu vào số phận cá nhân vừa mang tính hoành tráng của cơn bão táp của cách mạng.

Và Nguyễn Huy Tưởng bắt tay vào tiểu thuyết được coi là lớn nhất trong sự nghiệp của ông: “Sống mãi với Thủ đô”.

Năm 1958 sách viết xong, 1961 sách ra mắt bạn đọc, được nhà văn Nguyễn Tuân viết lời bạt, nhà văn Nguyễn Khải viết bài khen ngợi cũng rất nhiều nhà báo, nhà phê bình khác bốc thơm.

Vậy thực chất giá trị của “Sống mãi với thủ đô”  của Nguyễn Huy Tưởng là thế nào?  Cuốn sách dày 450 trang mở đầu là cuộc tản cư của người Hà Nội về nông thôn tránh bom đạn giặc Pháp và kết thúc ở một đơn vị tự vệ đã bước vào ngày thứ hai của cuộc kháng chiến.

 

Trên sân ga Hàng Cỏ hai tháng sau ngày Quốc khánh mồng 2 tháng 9, giữa đám đông chạy loạn người ta thấy Trần Vinh, thầy giáo đưa mẹ xuôi tàu Nam tản cư về quê. Anh gặp lại Trinh người yêu cũ  đã  lấy chồng giàu có. Lúc này trụ lại Hà Nội và xin vào tự vệ dường như là thước đo giá trị của thanh niên Hà Nội; bởi vậy khi nghe Trinh hỏi mẹ:

“Tự vệ phải đánh nhau, sao các anh ấy lại thích vào mợ nhỉ ?”

Trần Văn cau mặt. Trinh không những tỏ ra thờ ơ với thời cuộc mà còn ngu nữa. Hồi yêu Trinh, anh tưởng Trinh thông minh, có ngờ đâu lại thảm đến như thế này…”

Không phải chỉ có Trinh là thờ ơ với thời cuộc, trên sân ga, Trần Văn còn thấy “một đám thanh niên mặc tây đi xích lô từ phía Hàng Lọng tới. Họ vội vã, hấp tấp, hốt hoảng. Họ cuống cuồng bước lên thềm, chạy vào ga lấy vé, mặt tái nhợt, hơi thở dốc ra. Trông thấy Trần Văn họ bẽn lẽn xấu hổ, người cúi mặt xuống, người ngoảnh mặt đi. Trần Văn cười trong bụng. Chắc chắn họ cũng cùng một loại với mấy anh thanh niên theo gia đình đi tản cư mà anh gặp lúc nãy ở ngoài ke, các anh chàng phải giấu mặt đi để cho đồng bào khỏi trông thấy và xỉ vả là đồ hèn nhát….”

Vậy Trần Văn dĩ nhiên  là một thầy giáo giác ngộ cách mạng nên mới có cái nhìn khinh bỉ đối với đám thanh niên cầu an, tản cư khỏi Hà Nội như vậy. Anh là giáo viên sử, dạy trường tư của một “nhà trí thức cách mạng”. “Anh đã được giảng sử nước nhà bằng tiếng Việt Nam một cách đường hoàng, không phải dè dặt quanh co. Cách mạng tháng Tám đã mở cho anh một cuộc đời mới”. 

Học trò của thầy Trần Văn cũng “cách mạng” không thua gì thầy.

Trước hết là cô Quyên, nữ sinh Hà Nội. “Một chị cán bộ đã giới thiệu Quyên vào làm mật mã nhưng Quyên khóc xin thôi. Quyên cho là chị cán bộ khinh mình, vì Quyên thấy cái công tác được giao cho chẳng có gì là chiến đấu cả. Quyên nghĩ rằng đánh nhau thì phải nằm gai nếm mật, mặt trận thì phải là màn sương gối đất chứ có đâu lại đi làm một công việc chẳng có gì là khó nhọc, ro ró ở một xó nhà…” . Thế rồi trong tường tượng, hình ảnh người chồng tương lai của cô nữ sinh này cũng phải là …một người cách mạng. “Người ấy đã phải bị đầy ra Côn Đảo, đã phải vượt  tù trốn về khu giải phóng, và lúc này phải gánh vác những công việc lớn lao. Người  chồng lý tưởng ấy của chị có thể không còn trẻ nữa, nhưng chị sẽ yêu với tất cả lòng yêu của chị, chị sẽ hy sinh tất cả cho anh để bù lại trăm nghìn gian khổ mà anh đã phải chịu trong bao nhiêu năm…”

Một quan niệm về tình yêu “lãng mạn cách mạng” ghê gớm chưa? Còn nam sinh của thầy như anh chàng tên Loan thì cũng bị “trí tưởng tượng đưa anh từ cuộc đời còn thơm tho mùi sách vở tới những trận chiến đấu ngổn ngang xác giặc và chính anh có thể chết dưới đống gạch ngói của phố xá điêu tàn…”.

Đứng giữa đám học sinh “mắt long lanh như sắp xông lên chiến đấu”, anh giáo Trần Văn bỗng “thèm làm một người cán bộ nắm được hết tình hình, biết mình sẽ làm gì và đi tới đâu. Anh cảm thấy con người mới phải là con người chẳng kể trường hợp nào, đều làm chủ được tình thế …”. Và rồi để “động viên tinh thần chiến đấu” cho đám học trò, anh giáo kể câu chuyện cái lỗ đạn Pháp bắn vào thành Hà Nội ngày 20-11-1873 bị một nhà nho nào đó lấp đi để “nhân dân hàng ngày khỏi trông thấy mà thêm nhục”. Mấy hôm sau, một ông nhà nho khác lại khoét cái lỗ ấy ra với lý lẽ “phải để đấy cho mọi người luôn luôn trông thấy cái nhục mà nghĩ đến việc cứu nước…”. Hai ông cứ người lấp người phá cho đến khi Pháp biết chuyện đem rào kín cổng thành lại (!). Câu chuyện thực hư không biết ra sao, nhưng người Hà Nội mỗi lần đi qua phố Cửa Đông đều nhìn thấy cái lỗ đạn ấy và không hiểu Pháp đã rào nó lại bằng cách nào?

Anh giáo Trần Văn kể xong câu chuyện, kết  luận:

“Tôi nghĩ lúc này là lúc chúng ta lấp cái nhục bằng gươm bằng súng đấy… chúng ta sẽ cho chúng nó biết rằng chúng ta không phải là một lũ hèn…”.

Ngoài đám thầy trò Trần Văn sôi sục tinh thần yêu nước, người ta còn thấy cô Nhân, bán hoa ở Ngọc Hà, thầm yêu anh giáo, chị họ cô Nhân có chồng chết trong khi Nam tiến, đứa con trai tuổi còn con nít tên Dân cứ nằng nặc xin đi… bộ đội vì nhớ bố quá, tất cả đều trong không khí sẵn sàng… đánh Pháp. Ở vườn hoa Cửa Nam, Trần Văn gặp một người thợ nặn các tượng Quan Công,  Hạng Vũ… bằng bột bán cho con nít. Khi một đoàn xe “chở toàn Tây mũ đỏ, kèm theo mấy con nhà thổ, me tây loè loẹt” chạy qua, anh thợ nặn bột lên tiếng chửi theo kiểu rất …“trí thức”:

“Đánh Đức thua Đức, đánh Nhật thua Nhật, đánh đâu thua đấy, bắt nạt Việt Nam. Mẹ cha mày, bố mày cũng không dám đánh đêm…”

Được nghe chửi như vậy, anh giáo càng thêm phấn chấn. Anh bĩu môi lẩm bẩm: “Mọi bạo lực, mọi cường quyền mạnh đến như sấm như sét rồi cũng tan đi như bọt. Hạng Vũ, Attila, Nã Phá Luân, Hitler và Lơ Cléc, tất cả, trước hay sau, chóng hay muộn tất cả đều đổ sụp. Chỉ có nhân tâm là muôn thủa…:”

“Quần chúng nhân dân” Hà Nội được Nguyễn Huy Tưởng mô tả thành những con người yêu nước, nóng  bỏng lòng căm thù như vậy, còn giặc Pháp, ngược lại được mô tả như bọn thú dữ uống máu người không tanh:

“Cánh cửa mở ra, giữa tiếng kêu hãi hùng của một người đàn bà và hai đứa con luống cuống trong một gian nhà nhỏ tối mờ mờ, đồ đạc đã thu dọn cả, chỉ còn trơ một cái giường. Tên lính Pháp hỏi Việt Minh, người mẹ không biết tiếng Pháp quỳ xuống  chắp tay vái lia lịa miệng van lạy: Quan lớn làm phúc tha cho mẹ con chúng tôi… Tên lính hỏi dồn. Nó nắm lấy tóc người mẹ lôi dậy, gật gật đầu cười …”

Và cái cảnh sau đây, thật chỉ có trong phim…kinh dị :

“Nhưng tên lính cười gằn, lật mặt người mẹ ngửa ra đằng sau. Cái cổ tròn căng thẳng, thoi thóp, gợn mấy đường gân xanh. Một bàn tay chới với nắm lấy cái bàn tay của đứa con trai chừng năm tuổi. Đứa con gái nhỏ mới hai tuổi giẫy đành đạch hờn với mẹ, hai tay bíu vào cái gấu quần lụa trắng: “Mợ ẵm con…mợ ẵm con…”. Tên lính tháo đôi hoa tai của người mẹ, thản nhiên đút vào túi. Mặt người đàn bà trắng như tờ giấy, thân oãi cong lên. Môi tên lính rung rung. Nó tuốt lưỡi lê, đâm gọn vào cái cổ, tay nắm tóc buông ra. Đầu người mẹ gieo mạnh xuống sàn gạch. Không một tiếng kêu. Lưỡi lê lại vung lên. Đứa con lớn đứng bên xác mẹ vừa khóc vừa đưa hai bàn tay nhỏ bé lên đỡ. Một ánh chớp loáng. Hai bàn tay vụng dại nắm chầm lấy cái lưỡi  lê đâm mạnh, thọc sâu vào ngực nó…”

Cái cảnh chém giết rợn tóc gáy như trên còn kéo dài cả hai trang nữa khiến người đọc căm thù giặc Pháp đâu chưa biết chỉ thấy khiếp hãi cho ngòi bút của nhà văn dường như cũng đang chấm vào máu  mà viết nên những trang …kinh dị đến mức khó tin. Sau cùng, để “tố cáo tội ác giặc xâm lược” sâu sắc hơn nữa, ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã mô tả chi li một cảnh còn kinh hoàng hơn dưới địa ngục mà có lẽ trong văn chương kim cổ chưa ai dám viết:

“Lưỡi  lê đỏ máu của tên lính hung ác dứ dứ mấy cái rồi đâm phập vào cổ ằng ặc của người thanh niên. Nó xoay nghiêng cái cổ cho máu ồng ộc chảy xuống cái âu trầu. Mấy ông già run rẩy ngồi thụp xuống nhắm nghiền mắt. Một ông cụ râu tóc đều bạc xô một thằng Pháp đứng sau để chạy. Bên xác người mẹ, đứa con gái khóc bằn bặt không thành tiếng. Bỗng tên lính giết người kéo ông già râu bạc lại. Nó cầm cái âu đầy máu ngầu bọt kề vào miệng cứng đờ của ông cụ nói: “Mày húp đi. Mày húp trước đi. Rồi chúng mày thay nhau mà húp…”. Những tiếng cười  của bọn giết người lại nổi lên trong cái gian nhà lênh láng máu…”

Sự thực tội ác của giặc Pháp ở phố Yên Ninh vào tháng 10/1945 dã man đến đâu, rồi đây các nhà sử học sẽ làm rõ, riêng nhà văn Nguyễn Huy Tưởng thật đáng mặt bậc thầy về phương pháp sáng tác tự nhiên chủ nghĩa và xứng đáng được tặng một…cây bút vấy máu.

Tất nhiên vào thời điểm đó vì “yêu cầu chính trị” phải kích động nhân dân Hà Nội căm thù giặc Pháp, những người làm công tác tuyên truyền có thể bịa đặt hoặc thổi phồng vụ tàn sát để trương biểu ngữ  “Trả thù cho 23 đồng bào bị giết ở ngõ Yên Ninh” trên ô tô chạy khắp Hà Nội, nhưng cả 15 năm đã qua đi, yêu cầu tuyên truyền bôi đen quân xâm lược không còn đặt ra nữa, nhà văn khi đặt bút viết tiểu thuyết cần phải trả lại sự thực cho các sự kiện. Tiếc thay Nguyễn Huy Tưởng không làm được  điều đó, ông vẫn viết đầy hứng khởi theo kiểu…tuyên truyền y như một nhà báo của Đảng đang hoạt động vào tháng 12/1946 chứ không phải nhà văn viết tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô” mười hai năm sau đó. Chính vì vậy những sự kiện ông đưa ra có vẻ thiếu xác thực vì người đọc đã có độ lùi 15 năm sau để nhìn nhận nó.

Chẳng hạn câu chuyện ông kể về nỗi khao khát của đồng bào miền Nam được trốn ra Bắc sau khi thực dân Pháp trở lại chiếm đóng:

“Cái hồi vỡ mặt trận Ninh Hoà, quân Pháp sắp kéo đến. Đồng bào không ai ở lại. Từng đoàn người lũ lượt tản cư, theo nhau băng rừng lội suối đi tìm miền tự do. Có một cụ già tám mươi tuổi cũng chống gậy đi. Mọi người bảo cụ: Cụ đã già nua tuổi tác, nó dù có tàn ác đến đâu cũng không giết cụ làm gì. Cụ đừng đi cho vất vả. Đường đi nhọc nhằn, cụ sẽ chết dọc đường mất…”

    Cứ tưởng bà lão tám mươi gần kề miệng lỗ, lúc này ham muốn tột bậc chỉ  là được chết ở quê nhà gần gũi với ông bà, tổ tiên, nào ngờ cụ lại hăng hái:

“Bà cụ nói: Cảm ơn các ông các bà tỏ lòng thương. Nhưng tôi không ham sống làm gì nữa. Chỉ muốn đến những nơi nào không có giặc Pháp, những nơi nào còn có ngọn cờ đỏ sao vàng…”

Rõ khổ, đã “không ham sống làm gì” lại còn bỏ làng bỏ xóm để đi tìm… “cờ đỏ sao vàng” thì quả thật thế gian này… chưa hề thấy. Hư cấu quá đà như vậy, ông nhà văn vừa làm khổ “bà cụ” vừa làm khổ cả người đọc. Vậy nhưng chưa hết, ông Nguyễn Huy Tưởng vẫn chưa tha cho “bà cụ”, ông bắt:

“Thế rồi bà cụ cứ đi. Sau mấy ngày bà cụ đi trong rừng, cụ đã kiệt sức quá. Cụ đã nằm chết ở bên cạnh đường mòn, lối lên đèo Cả. Cụ đã chết trên con đường đi tới tự do…Nhưng nét môi đã rụng hết răng như bằng lòng mình đã thở cái hơi cuối cùng ở trên một miền đất trong sạch, không có dấu  chân quân Pháp…”

Than ôi, một bà cụ tám mươi, cái quà tặng nhân đạo nhất ông nhà văn cần mang tới cho cụ lúc đó là một bát cháo nóng cho đỡ đói lòng chứ đâu phải thứ “tự do” ở trên trời và lá cờ đỏ sao vàng ở tận đẩu tận đâu. Mà rồi lúc thở hơi cuối cùng bà lão tám mươi sao còn nghĩ được nơi bà nằm xuống không có dấu chân quân Pháp? Lúc đó hoặc chẳng nghĩ gì hoặc nghĩ tới ông bà cha mẹ chớ ?  Ông nhà văn tính ca ngợi mà hoá ra lại thành mỉa mai bà cụ. Thế rồi để biến cụ thành “tượng đài của lịch sử”, ông nhà văn “đắp một nấm mồ chôn cụ, cài một mảnh giấy chẳng biết bây giờ có còn không, đề mấy dòng: “Mồ một bà cụ đã đi tìm tự do. Đèo Cả ngày 8-2-1946…”

Câu chuyện “bà cụ đi tìm tự do” chẳng biết có được mấy phần trăm sự thực, chỉ tiếc  cuốn truyện của ông nhà văn chưa tới được tay mấy ông trong Viện bảo tàng cách mạng tỉnh Trị Thiên-Huế, nếu không vào cái thời buổi “rút ruột công trình này” họ đã tìm tới tận nơi thực hiện ngay một dự án đúc tượng và xây mộ bà cụ để cho tỉnh có thêm một điểm tham quan du lịch trên đèo Cả.

Để tăng thêm tính lãng mạn cách mạng cho những người tình nguyện ở lại Hà Nôi chiến đấu chống Pháp, ông tác giả đưa ra nhân vật Hiền, nữ sinh năm thứ nhất thành chung, là người yêu của Nhật Tân, một anh tự vệ thành luôn bày tỏ lòng căm thù giặc Pháp.  Cô này đã đưa bố mẹ đi tản cư, ra tới bến sông, cô quăng cả xe đạp lẫn các bậc sinh thành để trốn về Hà Nội. Giữa khi phố xá hỗn loạn, xung quanh đầy hòn tên mũi đạn, cô nữ sinh này bỏ bố mẹ bơ vơ quay lại Hà Nội làm gì vậy ?

“ Đứng trên sập, Hiền đang soi vào một cái gương lớn. Hiền là một cô gái mới lớn, mặt bàu bàu hơi to so với khổ người tầm thước… Chị mặc chiếc áo nhung đỏ, quần xa tanh là, chân đi hài con bướm vàng rung rinh. Đầu Hiền vấn một chiếc khăn nhung lam, cổ đeo kiềng vàng trơn. Chung quanh Hiền treo lủng lẳng chiếc áo nhung lam, chiếc măng tô màu tím sẫm và các áo len hoa mùa hoa dâu, màu vàng, màu đỏ….”

Trời đất đang loạn lạc, cô Hiền trốn tản cư quay về nhà tưởng làm chuyện gì ghê gớm hoá ra để mặc … bộ đồ cưới mà nếu chiến tranh không xảy ra chỉ một tuần lễ nữa thôi cô sẽ mặc nó lên xe hoa. Vừa lúc đó anh chồng sắp cưới là Nhật Tân ghé đến. Chẳng hiểu sao một con người  trí thức tiểu tư sản Hà Nội như anh mà lại hỏi vợ sắp cưới đang mặc đồ cô dâu một câu lãng xẹt:

“Hiền nghĩ thế nào mà lại thắng bộ cưới vào thế ? Buồn hay vui?”

Thật đúng giọng một anh nhà báo qua đường, không mảy may mang một chút tâm tình của người trong cuộc, hạnh phúc đã nằm trong tầm tay vậy mà chiến tranh làm tuột mất. Rồi anh an ủi người yêu theo cái cách “cán bộ làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng”:

“Nếu chiến tranh không xảy ra thì chúng mình cưới. Nếu xảy ra thì chúng mình đợi sau chiến tranh. Lo gì ?”

Thế rồi lẽ ra trong khung cảnh đầy phập phồng của nỗi chết đang rình sẵn, trong căn nhà giưã khu phố vắng vẻ, đôi tình nhân phải ghì chặt nhau, che chở cho nhau, và đốt cháy nhau trong ngọn lửa của tình yêu trước lúc…tận thế. Đằng này không, ông nhà văn không mảy may cho hai con tim rung động và thổn thức, ngược lại ông chỉ cho hai cái miệng bàn chuyện…chính trị. Nàng thì thổn thức:

“Không có gì quý bằng tự do anh nhỉ. Em không thể nào quên được những ngày Quốc Khánh vừa qua, bày tiệc ra đường ăn uống. Em không thể nào quên được những ngày biểu tình hồi cách mạng, đoàn nữ sinh chúng em có hàng nghìn, đều để tóc thề, mặc toàn trắng, xinh lắm, đi đến đâu người ta hoan hô đến đấy…”

Còn chàng thì cao giọng:

“Đúng rồi. Đồng bào miền Nam khao khát ngoài này lắm mà họ gọi là đất tự do. Anh kể cho Hiền nghe cái hồi vỡ mặt trận ở Ninh Hoà, quân Pháp kéo đến…”

Rồi cứ thế chàng thao thao bất tuyệt về tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do” của dân ta khiến cuộc gặp gỡ giữa hai kẻ đang yêu trong khung cảnh đầy bi tráng biến thành một cuộc “bày tỏ lập trường yêu nước” giữa hai con người đang căm thù giặc Pháp đến quên cả… yêu. Những trang viết thế này bộc lộ chất “tuyên huấn” trong ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng đậm đặc gấp nhiều lần chất “nhà văn” mà ông ta được mệnh danh và trên hết, nó phơi bày một tài năng văn học kém cỏi.

Cái anh chàng Nhật Tân này đối với “vợ sắp cưới” còn “chính trị” huống hồ với người ngoài. Và đây là dịp anh thể hiện lòng nhiệt huyết yêu nước và căm thù giặc:

“Trước cửa nhà hát Tố Như, một toán người kéo đi, ùn ùn, lộn xộn. Người  xách vali, người đeo đẫy, người gồng gánh, phần lớn là những anh em lao động….”

Giữac lúc nước sôi lửa bỏng, là thanh niên phải ở lại sống chết với thủ đô chứ, sao lại kéo nhau đi tản cư ? Lập tức Nhật Tân đứng ra hò hét:

“Thanh niên phải sống chết với thủ đô. Các anh đi đâu? Các anh không biết bỏ đi là hèn à ? Trở về ngay. Tôi bảo…”

Người mũ xanh giơ tay lên :

“Chính phủ không hề ép buộc ai ở lại. Anh là gì mà giữ được chúng tôi ?”

“ Tôi là gì ấy à? Tôi chỉ nhân danh là một thanh niên Hà Nội, tôi không cho các anh về…”

Và thế là chàng tự vệ khăng khăng bắt mọi người quay lui.

Đám tự vệ tản cư  bộc bạch :

“ Nhưng chúng tôi có được như các anh đâu. Không có cái gì vào miệng thì không ai nói cứng được. Chúng tôi không có hạt cơm nào vào bụng từ hôm qua rồi.”

Chàng tự vệ Nhật Tân quát tháo:

“Sắp đánh nhau với Pháp mà các anh còn nói chuyện cơm áo à? … Các anh lại sợ phản động nó bảo tự vệ đi làm bia đỡ đạn cho Việt Minh chứ gì ?”

“ Anh không được nói láo.”

“ Một lần nữa tôi bảo các anh về. Nếu không tôi sẽ…”

Người thanh niên mũ xanh quăng cái va li xuống đất, tay đưa mũ cho người khác:

“ Anh sẽ làm gì ? Khai trừ chúng tôi chắc ?”

Nhật Tân thét:

“Khai trừ à ? Không, khai trừ một tự vệ không phải bằng một lời tuyên bố. Khai trừ tự vệ bằng súng đạn….”

…Anh rút khẩu súng lục giơ lên trời”…

Ghê chưa, giặc Pháp chưa thấy đâu, chưa chi chàng chiến sĩ tự vệ đã bộc lộ cái tính sắt máu ra với đồng đội rồi. Chẳng hiểu ngoài đời có chàng tự vệ nào như chàng Nhật Tân này không, chỉ thấy cái căn bệnh thích “nói quá”, khuếch đại tính cách nhân vật làm giảm đi rất nhiều tính chân thật của tác phẩm.

“Sống mãi với Thủ đô” được Nguyễn Huy Tưởng viết vào năm 1958, thời điểm này đang là thời của căn bệnh “vót nhọn tính cách nhân vật” của các nhà văn Hà Nội – tước đi mọi suy tư, tước đi mọi vật vã cá nhân, tước đi mọi biểu hiện bản năng, mọi tính người – để tập trung duy nhất vào một tính cách: “yêu nước và căm thù giặc” mà đôi khi hoặc không có hoặc chỉ ẩn khuất trong từng mỗi người.

Trong cái tiểu đội tự vệ mà Nguyễn Huy Tưởng dụng công đưa ra, gồm tới 8 – 9 con người rất khác nhau về đủ mọi phương diện. Trước hết là tiểu đội trưởng Tu, “anh phu khuân vác ở Cột đồng hồ, một người trạc bốn mươi tuổi, hai vai rộng và chắc như lực  điền, da mặt dày lên vì sự vất vả và tính thật thà…”. Chẳng hiểu anh phu khuân vác này bỏ mặc bố mẹ, vợ con ở đâu mà chẳng thấy lo lắng gì chỉ thấy nói chính trị chẳng khác gì cán bộ Việt Minh với một chú bé đang đòi ở lại với tự vệ: “Vào tự vệ là cầm bằng cái chết trong tay. Các anh lớn phải ở lại. Em còn nhỏ ở lại làm gì? Con anh bằng tuổi em, anh cũng phải cho nó đi tản cư với mẹ nó…”..

Người thứ hai là Mộng Xuân, “anh kép cải lương , khoảng mười bảy mười tám, người ẻo lả, mặt trắng bệu, tóc mai dài, ăn mặc chải chuốt một cách lẳng lơ…”. Tính cách có vẻ “bóng” (bisexual) vậy nhưng lại nói chính trị rất hùng hồn, mùi mẫn:

“Xin các huynh cho đệ ghi tên đã. Lần này chúng ta ở lại là sống chết với thủ đô thật, dù phải da ngựa bọc thây, thịt nát xương tan cũng không lùi bước. Trước đây ai muốn vào thì vào, ai muốn ra thì ra . Các huynh hiểu cho, như thế là không được. Các huynh đến là mừng rồi  …”

Người thứ ba là Long đen “bộ răng vàng của anh rít chặt, cái mặt choắt đen thui, trước làm nghề nặc nô, sau làm yêu Nhà máy nước đá. Hồi cách mạng anh ta lấy cắp súng của Tàu trắng bán cho Cục Quân giới. Gần đây, anh đã báo cho công an bắt được ổ in bạc giả và làm giấy cải tà quy chính.” . Do xuất thân lưu manh, có thành tích bất hảo nên Long đen tuy đã được nhận vào tiểu đội tự vệ nhưng chưa được tin cậy hẳn. Bởi vậy cả tiểu đội đều được phát giấy chứng minh thư, chỉ riêng Long đen là chưa được. Anh chàng tức quá, kêu lên:

“Các anh còn đòi Long đen cái gì nữa? Bao giờ mới hết nghi cái thằng Long đen chó má này? Chả nhẽ tôi lại chờ để bị bắt. Không đâu, tôi không để cho ai bắt tôi như một đứa lưu manh nữa. Tôi không đến nỗi là không biết nghĩ đâu các anh ạ…”

Bàn tay Long vả vào má đôm đốp…”

Vậy là lòng yêu nước trong Long đen đã nổi lên làm anh cụt cả máu giang hồ hảo hớn tự rủa xả mình khi chưa gây được lòng tin nơi cách mạng.

Người thứ tư là Sởn “trạc ngót ba mươi tuổi, mặt vuông, cằm bạnh, thớ thịt hai bên quai hàm luôn luôn đụng đậy như đang nhai phải cái gì. Anh như không biết rét, chỉ phong phanh một bộ quần áo nâu, cổ quàng một cái khăn mặt bông còn mới…” . Cũng như những người khác, Sởn không mảy may lo lắng gì về gia đình bản thân ngoài lo…đánh giặc.

Người thứ năm là Loan – chàng học sinh tiểu tư sản đặc sệt “trí tưởng tượng đưa anh từ cuộc đời còn thơm tho mùi sách vở tới những trận chiến đấu ngổn ngang xác giặc và chính anh có thể chết dưới đống gạch ngói của phố xá điêu tàn…”. Bây giờ Loan sống trong tiểu đội tự vệ làm chân vẽ bản đồ. “ Mơ mộng gì nữa khi bầu trời Tổ quốc không còn là bình minh của hương sắc mà đục ngầu những hình thù tối đen của mũ đỏ và thổ phỉ… Anh  gắn mình vào cuộc sống chung quanh. Anh cố rập khuôn theo nguyên bản, sợ sai một tý thì ảnh hưởng đến những kế hoạch  quân sự sau này…”.

Vậy là cái bước đầu tiên của một anh học sinh tiểu tư sản khi tham gia cách mạng là phải “từ bỏ mình” để hoà mình vào quần chúng:

“Loan cảm động nhìn mọi người đang đứng sát lại. Những thân hình còn mảnh dẻ  tương phản với những cái vóc nặng nề, cục mịch, những đầu bóng mượt với những mớ tóc rối. Những thư sinh mặt trắng mới từ bỏ mái trường họp với những người phu, người thợ chỉ có hai bàn tay trắng…”

“Những thư sinh mặt trắng này” rồi đây sẽ phải “rập theo khuôn của nguyên bản” là mấy anh thợ anh phu này đây. Một quá trình “tự cải tạo” không mấy dễ dàng và đầy khổ ải nhưng lại  được  ông nhà văn nói tới một cách vui vẻ và đầy nhiệt thành.

Người thứ sáu là Lai, “một đứa trẻ khoảng mười ba, mười bốn tuổi, mặc một cái quần cộc, một cái áo sơ mi người lớn bằng kaki vàng, lùng bùng sau cái áo sợi đan màu đỏ kệch. Một tay nó cầm con dao, một tay xách một caí hòm nhỏ. Tóc nó dài đến mái tai, ngả nghiêng như lúc bị bão” . Chú bé này từa tựa như  nhân vật Gavơrốt  trên chiến hào Paris trong truyện “Những người khốn khổ” của Victor Hugo. Chú khăng khăng đòi ở lại để …đánh Tây:

“Cháu đã đi tản cư với u. U cháu chẳng buôn bán gì được. Cháu nói với u cháu lại cho cháu ra Hà Nội. U cháu cho cháu một đồng bạc. Cháu đi qua chợ, mua được con dao này…”

Vậy là bao nhiêu tiền mẹ cho, chú bé Lai dốc hết cả vào việc … mua dao để giết Tây. Yêu nước ghê gớm vậy đó. Rồi khi bị tiểu đội tựï vệ từ chối không cho gia nhập, chú Lai phẫn uất:

“Ở đây cũng không nhận cháu ư? Xin vào bộ đội, các anh ấy cũng không nhận, các anh ấy chỉ nhận con nhà giàu, chúng nó có quần áo, chúng nó biết hát. Nghèo thì Tây cũng khinh mà ta cũng khinh…”

Chú bé Lai đã nói vậy, tất nhiên tiểu đội tự vệ phải nhận chú chứ còn biết nói sao ?

Người thứ bảy không được tác giả đặt tên chỉ cho nói chuyện chính trị:

“Nó gây ra vụ Yên Ninh thì là nó chết. Bộ đội  kéo về đông lắm rồi, đông hơn hôm qua, đông hơn hôm kia. Trong thành chúng nó lục  đục, lính Đức nổi loạn, nó giết nhau chí choé, giải phóng Thủ đô đến nơi rồi…”

Một anh khác cũng hăng hái:

Mình chết “Cụ Hoàng Diệu thì hơi bi. Cụ chết nhưng thằng Pháp nó vẫn hạ được thành Thăng Long. nhưng không để mất Hà Nội…”

“ Cốt nêu cái tinh thần cảm tử thôi. Lính nhà Trần thích chữ Sát Thát thì mình viết lời thề sống chết…”

Cứ như vậy ông nhà văn cho dù đang miêu tả nhiều nhân vật với nhiều xuất thân khác nhau nhưng thực ra ông chỉ xây dựng có một nhân vật: đó là lòng yêu nước  một chiều – yêu cầu hàng đầu của Đảng đối với công việc sáng tác của các nhà văn trong vòng tay của Đảng.

Trong cộng đồng người Hà Nội, không hiểu sao những thương gia,  doanh nhân giàu có luôn luôn bị các nhà văn cộng sản coi là xấu xa, tiến thân bằng lừa gạt phản trắc. Ông Cự Lâm là một thương gia có xuất thân như thế:

“ Một người chú họ làm ở Hồng Kông mua được nhiều hàng quý như gương, thảm, giường Hồng Kông, len, dạ, tơ lụa, đồng hồ, bút máy… hàng tháng gửi về nhờ ông giữ hộ. Có hàng chục năm như vậy. Nhưng ông Cự Lâm đã bội tín, chiếm hẳn những của ấy làm của mình, và từ một người buôn chè nhỏ, ông cứ phất mãi lên. Ông chú tiếc của phát điên lên rồi tự tử. Ông có một ông bạn người Tàu. Ông này muốn tậu một cái đồn điền ở Bắc Ninh, nhưng người ngoại quốc không có quyền mua đất ở Việt Nam. Ông Cự Lâm nhận đứng tên thay, bên trong đồn điền vẫn là của người bạn. Giấy má làm xong, ông Cự Lâm lật mặt nghiễm nhiên làm chủ cái đồn điền. Những mánh khoé làm ăn tương tự nhiều không kể hết…”

Ông Cự Lâm đã xấu vậy, bà vợ ông cũng chẳng tốt đẹp gì:

“Bà trông bệ vệ nhưng đần độn. Bà chỉ là một cái máy đẻ. Việc kinh doanh của chồng thì bà không biết gì, việc trông nom trong nhà, từ tiêu pha trong nhà đến bếp nước giỗ chạp thì đều do bà giáo (em chồng) mà bà ta cũng rất sợ”.

Bà em gái ông Cự Lâm thì:

“Sau khi bà được triều đình Huế ban tặng bốn chữ: “tiết hạnh khả phong” mà cả họ được thơm lây thì bà lại càng nghiêm khắc với các cháu, nhất là cháu gái. Lan không được ra khỏi nhà, không được đọc sách báo, thấy đàn ông phải cúi mặt xuống không được nhìn. Bà goá chống từ năm mười tám tuổi và ở vậy giúp anh, nuôi cháu. Bà thường lấy cái gương trinh tiết của mình ra mà răn chúng nó. Trước đây Lan vẫn sợ bà, đùng một cái, mới gần đây thôi, Lan có ý định cưỡng lại lời bà. Bà lo cho Lan thì ít mà lo cho quyền lực của bà bị thương tổn thì nhiều…”

Thế hệ bố mẹ đã như vậy, tất nhiên con cái phải khác, phải giác ngộ cách mạng thì mới phù hợp với chiều hướng xã hội mới chứù – bởi vậy nhà văn đã cho cậu con trai tên Phúc và hai cô con gái tên Lan và Hương khăng khăng ở lại Hà Nội xin vào tự vệ. Hành động cách mạng đầu tiên của Phúc là “chơi” bố một vố choáng váng đúng vào ngày giỗ bà nội:

“Đêm hôm qua trong lúc ông Cự Lâm đang nằm nghe bên ngoài người nhà làm cỗ, lòng ngổn ngang vì tình hình, não ruột vì khu phố thúc giục tản cư thì một tin đưa tới làm cho ông rụng rời đổ đốt: Phúc đã tự tiện đến nhà Quảng Xương  Long bắt người gác phải mở cửa và cùng một số đông tự vệ xông vào kho. Người gác giữ lại thì Phúc chửi mắng thậm tệ, đành phải báo bằng dây nói cho ông biết.”

Hoá ra tự vệ đang rất cần cuốc xẻng để đào hầm hào, ông Cự Lâm có cả một kho nhưng không chịu ủng hộ nên con trai ông kéo tự vệ tới phá kho:

“Cửa hiệu lúc ấy như đang bị bọn kẻ cướp đánh phá. Phúc đứng ở ngoài vỉa hè hò hét giục mọi người. Cự Lâm nghe rõ tiếng Phúc oang oang: Cần bao nhiêu cứ lấy. Càng nhiều càng tốt. Ông cụ đã muốn keo bẩn thì cho keo bẩn một thể…”

Đã dắt tự vệ về phá kho của bố lại còn chửi bố là đồ keo bẩn, ông con trai làm ông bố nổi giận:

“Bên hè, hai xe bò chất đầy những dụng cụ mới lấy ở trong kho ra. Một đám đông xúm quanh giơ tay tua tủa, người xin cái xẻng, người xin cái cuốc. Phúc nói: “Trong nhà còn nhiều, vào mà lấy chỗ này để đem đi.” Cự Lâm đã tới gần thét: “Phúc mày làm cái trò gì thế ?” Phúc giật mình quay lại thì bố đã giơ ba toong quật ngang lưng anh. Phúc nhanh nhẹn tránh được, cuống quít hô: “Đẩy xe đi! Đẩy xe đi !” . Và Phúc chạy biến vào đám đông. Cự Lâm đuổi theo, giơ ba toong vụt lia lịa, miệng chửi: “Mẹ cha thằng vô phúc. Mày đánh bạn với những quân du thủ du thực à ? Đứa nào xui mày? Tao không bố con gì với mày nữa. Mày đứng lại không mày chết!”. Một tốp thanh niên giữ rịt lấy Cự Lâm để cho anh em đẩy cái xe bò đi. Chỉ trong nháy mắt đám đông đã giải tán…”

Phúc thoát ly gia đình đi tự vệ còn ngoái cổ lại chửi bố. Anh thổ lộ với đồng đội:

“Các anh nên hiểu cho tôi. Tôi ngồi trên đống của thật đấy, nhưng tôi không muốn nối cái nghiệp làm giàu của cậu tôi. Cái dịp ấy bây giờ đã đến với tôi…” 

Cái dịp ấy chính là “Anh đã vào làm giáo viên hội truyền bá mặc dầu nhà cấm vì sợ mật thám theo dõi. Đã có lúc anh đóng cửa buồng lại, đứng trước gương tập diễn thuyết để sau này ra làm việc xã hội …”

Vợ chưa cưới của Phúc là Oanh, một cô gái làm cán bộ phụ nữ. Trong một cuộc hội nghị quân sự của Liên khu 1 Hà Nội, khi nghe Hồng Lưu, tiểu đoàn trưởng vệ quốc quân đứng lên nói xấu người Hà Nội:

“Thì Hà Nội là đất của tiểu tư sản, bấp bênh và quay quắt, cách mạng lên thì nó ào ào đi, cách mạng xuống thì nó quay lưng lại, Pháp cũng theo, Nhật cũng theo, Tàu trắng cũng theo, Việt Minh cũng theo và nếu Mỹ vào thì cũng đi với Mỹ…”

Hậm hực vì Hồng Lưu  động đến người Hà Nội, Oanh nói thêm, cái bàn tay rất thon xoè ra trước ngực:

“ Tôi là người Hà Nội, tôi cũng bấp bênh ư ?”

Liên khu 1 là phân vùng đông bắc Hà Nội, đông và bắc giáp cầu Long Biên, sông Hồng, đê Yên Phụ, tây giáp thành Hà Nội hiện Pháp đóng, nam giáp khu Hoàn Kiếm là nơi có các cơ quan Chính phủ, Quốc hội. Hội nghị quân sự của Liên khu 1 vào trước đêm nổ súng toàn quốc kháng chiến gồm phần lớn các nhân vật quan trọng cấp liên khu và cấp thành phố bàn về tác chiến, mà lạ thay, trong suốt  hơn 30 trang diễn tả cuộc hội nghị này, tác giả phần lớn chỉ cho các nhân vật hô khẩu hiệu suông:

“Đồng chí Bí thư nói:

“ Vì quyền lợi của dân tộc, Hồ Chủ tịch và Hội đồng Chính phủ vừa họp đã bác bỏ tối hậu thư láo xược và hạ lệnh cho toàn thể quân đội và nhân dân sẵn sàng. Nếu nó liều lĩnh gây ra cuộc chiến tranh xâm lược thì tiếng súng kháng chiến của chúng ta sẽ lập tức nổ vào đầu chúng nó… Dân tộc Việt Nam chúng ta là một dân tộc yêu chuộng hoà bình. Nhưng với cái chí khí quật cường mà tổ tiên ta đã hun đúc cho những anh hùng như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, dân tộc chúng ta có một tinh thần bất khả diệt. …Chúng ta phải làm những người tiên phong đi giải phóng dân tộc chúng ta. Trong ngày vừa qua, nhiều đảng phái đối lập công kích ta, hòng làm giảm uy tín của Đảng ta. Họ đòi chia quyền lãnh đạo, thậm chí đòi Đảng ta bỏ quyền lãnh đạo. Nhưng trong lúc Tổ quốc lâm nguy này thì họ ở đâu? Người  đứng mũi chịu sào trung thành với dân tộc vẫn chỉ có Đảng ta. Trong cuộc kháng chiến này, một lần nữa, Đảng ta lại làm cái sứ mạng là  lái con thuyền Tổ quốc vượt qua bão táp phong ba tới bờ thắng lợi …”

Hoá ra trong lúc nước sôi lửa bỏng, Đảng ta vẫn lo tới việc giữ độc quyền lãnh đạo, và suy cho cùng, chính cuộc kháng chiến chống Pháp đã giúp Đảng loại bỏ các đảng đối lập một cách dễ dàng.

“Ông Khu phó phát biểu:

“Nói tóm lại, nếu các đồng chí có một quyết tâm thật là sắt đá, nếu các đồng chí dựa được vào lòng yêu nước của bộ đội, của nhân dân, nếu các đồng chí biết phát huy những điều kiện thuận lợi đặc biệt của Liên khu 1 thì các đồng chí nhất định chiến đấu lâu dài trong thành phố được. Chính phủ, Hồ Chủ tịch giao cho các đồng chí một nhiệm vụ rất vinh quang. Các đồng chí cố lên. Dù có phải hy sinh thế nào cũng phải cầm cự tới cùng…”

“Ông Hồng Lưu, tiểu đoàn trưởng:

“Chúng tôi, những người Vệ quốc quân, chúng tôi quyết không để cho Pháp thực hiện cái ý đồ của chúng. Chúng tôi chỉ xin nhắc lại một đề nghị là cho chúng tôi thêm người và võ khí. Hiện nay không nói là về võ khí, phi cơ, đại bác, xe tăng, Pháp nó trội hơn ta hẳn, chỉ riêng về số lượng người, chúng ta cũng rất kém. Súng trường của ta không đầy một nghìn rưởi khẩu súng mà phần lớn là cũ. Vệ quốc đoàn và tự vệ chiến đấu thì không được bốn tiểu đoàn…Ý kiến tôi đã rõ. Nghĩa là chúng tôi sẽ hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Chúng tôi xin thề như thế trước chân dung Hồ Chủ tịch, trước mặt đồng chí Bí thư, đồng chí Khu phó và tất cả các đồng chí…”

 

Ngày nay, khi đã có một “độ lùi” nhất định để nhìn lại các sự kiện lịch sử, người ta lấy làm lạ rằng trong những ngày đầu rơi máu chảy, biết bao nhiêu bà già con trẻ lạc lõng bơ vơ, biết bao gia đình tan nát như những tổ chim trước bão….Một xã hội đang vỡ tung trong loạn lạc, bi kịch về thân phận con người đang bị đẩy tới đỉnh điểm. Một khoảnh khắc lịch sử tràn đầy máu và nước mắt. Vậy mà thật đáng ngạc nhiên, ngòi bút của ông nhà văn không đi sâu khai thác những nỗi bất hạnh trong chiến tranh, ngược lại dùng rất nhiều trang giấy để ghi lại những lời phát biểu “đao to búa lớn” của mấy ông cán bộ Đảng, khi súng sắp nổ trên toàn thành phố rồi vẫn còn cà kê ngồi khai hội. Ông Bí thư lại nói nữa:

“Chúng ta muốn hoà bình. Đến phút cuối cùng Hồ Chủ tịch vẫn cố gắng duy trì hoà bình. Nhưng chúng nó cố tình cướp nước ta lần nữa . Chúng đã khai chiến ở Hải Phòng, chúng đã khai chiến ở ngõ Yên Ninh rồi. Chúng ta muốn hoà bình, nhưng không phải hoà bình trong nô lệ. Chúng ta quyết đứng lên chiến đấu, bảo vệ quyền lợi cho dân tộc, đập tan sự nguy hại cho nền dân chủ và hoà bình …”

Người ta thật không hiểu vì sao phần lớn các ông cán bộ Đảng cứ thích nói dài, nói dai, nói chính trị, quanh đi quẩn lại có vài điều mà người nghe dường như đã “biết rồi, khổ lắm…”. Rất có thể trong khi nói, khoái  cảm “đứng trên đầu thiên hạ” tràn trề trong người làm cán bộ khó mà dứt lời cho được.

Sau khi nhắc đến cụ Hồ rồi, ông Bí thư thấy cần phải nhắc tới tên lãnh tụ khác:

“Như  đồng chí Trường Chinh đã nói, chúng ta sẽ làm cho giặc đói không có ăn, khát không có uống, có chân như què, có mắt như mù, có miệng như câm. Các đồng chí hãy nêu cao tinh thần dũng cảm của người cộng sản quyết chiến quyết thắng…”

Cứ như thế ông Bí thư độc chiếm diễn đàn cho tới khi cuộc họp kết thúc sau suốt một ngày một đêm “hô khẩu hiệu suông”.

Lúc này ngoài cổng trụ sở đã có một cô gái chờ sẵn suốt trong lúc các cán bộ đang họp. Đó là cô Quyên, nữ sinh Hà Nội, đang muốn “nằm gai nếm mật, ở mặt trận thì phải là màn sương gối đất  chứ có đâu lại đi làm một công việc văn phòng chẳng có gì là khó nhọc, ro ró ở một xó nhà…”.  Cô nữ sinh ôm ấp hình ảnh người chồng tương lai phải là “đã  bị đầy ra Côn Đảo, đã phải vượt  tù trốn về khu giải phóng, và lúc này phải gánh vác những công việc lớn lao”  để cô có thể “hy sinh tất cả cho anh để bù lại trăm nghìn gian khổ mà anh đã phải chịu trong bao nhiêu năm…”.

Với nhân vật Quyên, Nguyễn Huy Tưởng đã báo hiệu sự xuất hiện của thế hệ thứ nhất của hồng vệ binh Việt Nam theo sau những tên tuổi như Lý Tự Trọng và sau này là Võ Thị Sáu.

Vậy trong suốt một ngày một đêm cô Quyên chờ ai vậy?

Đó là “chị Oanh”, nguyên nữ sinh trường Đồng Khánh, “đã dẫn đầu các bạn học đi dự lễ kỷ niệm Gian Đa và Hai bà Trưng do trường Anbe Xarô và trường Bưởi cùng làm chung. …Thế rồi Oanh bị đuổi. Trước ngày Nhật đảo chính, Oanh tham gia cách mạng. Sau đảo chính Oanh càng hoạt động tích cực. Bị Nhật lùng bắt, Oanh phải thoát ly gia đình ra ngoại ô. Trước ngày cách mạng, Oanh là một trong những người  phụ nữ cứu quốc đứng trên gác Nhà hát thành phố, diễn thuyết hô hào ủng hộ Việt Minh trước đám biểu tình ngày 17 tháng 8….”

Vậy Oanh là một nữ cán bộ khá to, được dự Hội nghị quân sự Liên khu 1 lại được ngồi xe ô tô về Bắc Bộ Phủ. Gặp được Quyên, cô kéo Quyên tiện thể ngồi ô tô luôn. Khi xe chạy qua Trường nữ học Đồng Khánh vốn là trường cũ của Quyên,

“cô bỗng vịn lên vai Oanh, kêu:

“Chị ơi, trường Đồng Khánh của chúng ta đây này…”

Oanh nói:

“Đừng gọi cái tên thằng vua ấy nữa. Bây giờ là Quận uỷ hội…”

“Không hiểu sao, em nhớ trường cũ qua, chị ơi…”

Vậy là cô Quyên “lính mới” vẫn còn một chút nhớ nhung, xao xuyến về “mái trường xưa”, còn cô cán bộ Oanh, phản xạ đã sặc mùi chính trị, nghe nhắc tên trường đã giãy nảy vì nó là tên “cái thằng vua” bất chấp nó là “mái trường xưa đầy kỷ niệm”… Có thể tiên đoán được rằng, sau này “khi cách mạng thành công” loại nữ cán bộ như Oanh sẽ trở thành những Bộ trưởng, Thứ trưởng và với cung cách suy nghĩ  “lấy chính trị làm thống soái”, như vậy, có thể thấy trước họ sẽ đưa đất nước đi tới đâu.

Lần trước, cô Oanh đã giao cho cô Quyên làm nhân viên mật mã, cô không chịu vì không thích làm ở văn phòng, cô thích ra chiến đấu ngoài chiến trường kìa. Lần này Oanh lại giao cho Quyên nhiệm vụ khác, “oách” hơn nhiều:

“Quyên này, em sẽ đóng vai thư ký cho một nhà trí thức mới ở Pháp về, một bác sĩ rất giỏi, rất có tiếng nhưng cũng khó hiểu lắm. Bề ngoài là thư ký, nhưng bề trong là theo dõi, có gì thì báo cho chị biết…”

Thế là bỗng chốc cô nữ sinh Đồng Khánh trở thành… nữ tình báo viên, nhận nhiệm vụ làm thư ký moi tin của một tay bác sĩ ở nước ngoài về. Đây chính là sự “phân công” tuỳ tiện của ông nhà văn, chứ thực tế, vai trò điệp báo nằm vùng như nhiệm vụ Oanh giao cho Quyên phải là một nữ đảng viên trung kiên, đã kinh qua công tác và được đào tạo công phu chứ đâu có “ngơ ngác con nai vàng” như Quyên; khác nào đưa gà con vào miệng cáo? vả lại cô Oanh đang là cán bộ phụ vận, đùng cái đã trở thành tổ trưởng tổ tình báo từ lúc nào mà nhanh quá thế?

Một yếu nhân cũng vừa ra khỏi cuộc họp quân sự – Quốc Vinh, Chủ tịch Liên khu 1. Vừa nãy trong hội nghị khi nghe tiểu đoàn trưởng vệ quốc quân Hồng Lưu nói xấu dân Hà Nội, ông cũng đã phản bác rất hùng hồn:

“…đại đa số nhân dân Hà Nội , tôi khẳng định là tốt. Đấy là những tiểu thương, tiểu chủ, những viên chức những trí thức, những anh chị em nghèo, nhất là nam nữ học sinh và anh chị em thợ thuyền, công cũng như tư. Phải kể cả những anh chị em phu phen, những anh xích lô, hàng phở, những em nhỏ đánh giày, bán báo…. Ngay cả tư sản cũng có một số người hăng hái vào tự vệ, đặc biệt là con cái họ thì rất nhiều người có lòng yêu nước ví dụ như con trai Cự Lâm…”

Rồi ông làm một bản “báo cáo thành tích” của quân và dân thủ đô dài dằng dặc gần hai trang in.  Hoá ra mấy ông cán bộ chóp bu  rất giống nhau: từ lời ăn tiếng nói cho đến suy nghĩ, cảm xúc… Nếu như cho rằng nhân vật tiểu thuyết là sự tổng hoà giữa tính cách cá lẻ với đặc tính chung của gốc gác xuất thân thì tiểu thuyết “Sống mãi với Thủ đô”  hầu như không có… nhân vật hoặc chính xác hơn  chúng không có cá tính, mà ngược lại, chúng giống nhau như đúc một khuôn. Trong con người của mỗi nhân vật chỉ thấy duy nhất đang hoạt động là cái “siêu ngã”– tức là cái con người xã hội, con người công dân, yêu nước, căm thù giặc Pháp; ngoài ra hoàn toàn không thấy dấu vết của sự hoạt động bản năng, nguồn gốc của mọi vượt trội, gây mất trật tự trong bầy đàn.

Ta thấy câu nói  sau đây đặt vào mồm ai cũng được – ông Bí thư, ông Khu phó, ông Chủ tịch Liên khu 1, ông Tiểu đoàn trưởng bảo vệ Bắc Bộ phủ:

“Tất cả những con người ấy, bị áp bức, bị bóc lột, bị đày đoạ về tinh thần và vật chất, dưới thời nô lệ, đã thấy rõ cách mạng đem lại quyền lợi cho mình. Từ ngày tiền khởi nghĩa đến giờ họ đã được  giáo dục, được động viên, được tổ chức, nên họ có một lòng căm thù đối với giặc, một lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chính phủ vào Hồ Chủ tịch…”

Quả thật cái đoạn thoại này giống y như xã luận báo Đảng chứ chẳng phải ngôn ngữ của nhân vật. Giá trị văn chương của cuốn tiểu thuyết do vậy mà chẳng được  bao nhiêu…

 

Từ hội nghị ra, ông Liên khu trưởng Liên khu 1 ngồi ô tô về cơ quan. Ông nhìn thấy “đầu phố hàng Đào, phía Cầu Gỗ, sừng sững đỏ tươi, hai chữ CẢM TỬ kẻ từ bao giờ, chiếm cả cái bề dài bề rộng của bức tường vôi nham nhở của một dãy quán bán sách đã dọn đi. Hai chữ “cảm tử” như đôi mắt nhỏ máu lừ lừ nhìn Quốc Vinh. Dưới là một hàng chữ đen: “Chúng tôi, những thanh niên Hà Nội nguyện hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Thề sống chết với Thủ đô!”. Phố hàng Gai, một biểu ngữ nữa kẻ bằng chữ đỏ: “Mỗi phố là một mặt trận, mỗi nhà là một pháo đài !” 

Thực ra nếu cần ca ngợi tinh thần “sống chết bảo vệ thủ đô” của thanh niên Hà Nội thì khỏi cần “đi sâu” vào những khẩu hiệu vốn là thứ thật khó đưa vào tiểu thuyết – một thể loại văn học cần tình tiết sống động nhiều hơn là những từ ngữ chính luận khô khan. Tiếc thay sau khi đã dẫn tràng giang đại hải những phát biểu đậm đặc chính trị của các cấp cán bộ Đảng, ông nhà văn vừa cho độc giả thoát ra khỏi cái nặng nề u ám của không khí cuộc họp thì lại ấn cổ người ta vào ngay thế giới của những khẩu hiệu khô khan cho dù nó nói lên tinh thần quyết tử của thanh niên Hà Nội lúc đó.

Vậy nhưng người ta thừa biết có phải tất cả bọn họ đều quyết tử cả đâu, một bộ phận không nhỏ thay vì nghĩ tới số phận của Hà Nội, của cách mạng họ lo tới bản thân và gia đình trước đã. Đó là quyền được sống, được tồn tại chính đáng của con người. Vậy nhưng cuộc đào thoát khỏi tử thần trong cái cối xay thịt Hà Nội vào những ngày mới bùng nổ chiến tranh của hàng ngàn hàng vạn người dân không được  ông nhà văn nhắc tới hoặc giả có nhắc tới thì cũng với giọng khinh miệt coi họ là những kẻ đào nhiệm hèn nhát.

Vậy rõ ràng ông tác giả tiểu thuyết đã chọn một chỗ đứng trong chiến hào chỉ để nhìn địch ta giết nhau và nhất định không chịu xê dịch đi đâu để thấy biết bao cảnh đời khổ ải trong cõi nhân sinh mà máu và nước mắt đã chảy thành sông thành suối.

Trở lại với anh giáo Trần Văn, người đưa mẹ ra ga để về quê, gặp lại và coi khinh người yêu cũ khi cô cũng hoà vào dòng người chạy loạn. Hoá ra chính anh và mấy người học trò của anh đã viết những khẩu hiệu nêu trên ở phố hàng Đào. Một anh giáo trường tư  chưa bao giờ “tham gia cách mạng” ấy thế mà tâm tình lúc này còn rào rạt tinh thần cách mạng hơn cả mấy anh cán bộ Việt Minh:

“Anh thấy rực rực trong người cái vinh quang của một dân tộc hiền hậu mà tự cường, cần cù mà tế nhị…Một dân tộc mà lòng yêu hoà bình cũng lớn như lòng yêu các dân tộc khác nhưng luôn luôn bị chà đạp, bị khinh miệt, bị chia rẽ, bị tàn phá và khi bắt đầu được thấy loé cái ánh sáng của tương lai thì kẻ ngoài lại đến để tiếp tục vùi dập… Cách mạng Việt Minh mới ra đời trong lụt lội, trong đói khổ và trong kiệt quệ, Hà Nội chưa hồi sinh đã lại chứng kiến đạo quân Tàu phù của Tiêu Văn, Lư Hán, nhiễu nhương, bòn vét, giết người và ỉa bậy…. Bóng ma thanh thiên bạch nhật vừa mờ đi thì đạo quân thiết giáp kéo cờ tam tài lại xuất hiện trên các đường phố Hà Nội …”

Còn dài, còn miên man như vậy nữa khiến tâm trạng một anh giáo viên tiểu học người Hà Nội chẳng khác gì tâm trạng một chính uỷ lão luyện của Đảng quanh năm chỉ lo việc Đảng việc nước. Người ta càng lấy làm lạ tại sao các nhân vật trong “Sống mãi với thủ đô” của Nguyễn Huy Tưởng giống nhau đến thế? Chúng cứ như những hạt ngô trong cùng một bắp vậy. Viết lách thế này mà cũng mang danh “tác phẩm lớn” trong văn học Việt Nam thì kể cũng lạ!

Tuyệt nhiên không nghĩ tới mẹ già đang sống ra sao nơi tản cư, anh giáo Trần Văn cho đầu óc phiêu diêu tới miền tưởng tượng:

“Trần Văn nhìn cái ụ bao cát …anh sẽ nấp ở đấy mà ném lựu đạn vào quân Pháp tiến vào… Khi xe tăng giặc đến thì mình phải nhảy ra mà ném chai ét xăng cơrếp rồi quăng lựu đạn. Dũng cảm hơn, phải lao vào xe, cầm một khúc gỗ đút vào xích xe cho nó bật ra khỏi bánh. Anh vốn chậm chạp, anh không hiểu con người phải nhanh đến như thế nào mới làm được ngần ấy việc trong nháy mắt…”

Sau suốt nửa cuốn tiểu thuyết toàn mô tả các nhân vật sục sôi tinh thần cách mạng, ông nhà văn chợt thấy bức tranh của mình không khéo chỉ được vẽ bằng thuần một mầu đỏ, ông vội đưa ra một nhân vật “phản diện” để phá thế đơn điệu của tác phẩm. Đó là Tân – bạn của Nhật Tân, anh chàng tự vệ đòi bắn những thanh niên tản cư, anh chàng nói chuyện chính trị cả với vợ chưa cưới khi chia tay.

“Nhật Tân với Tân là đôi bạn chí thiết từ nhỏ. Nhà giàu, Tân thường giúp đỡ Nhật Tân. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Nhật Tân vào Việt Minh, Tân không đồng ý nhưng vẫn giúp…”

Vào lúc gần nổ ra chiến tranh, Nhật Tân tới nhà Tân để lôi kéo bạn vào tự vệ. Anh nói:

“Có thể đêm nay nó đánh mình…”

“Trời ơi, trời ơi, trời  ơi ! Mày doạ một thằng trẻ con đấy à, Nhật Tân?”

Rồi Tân vứt cái cốc xuống sàn vỡ tan, huỵch toẹt:

“Tao đi với Việt Minh thì rồi cũng thế này thôi. Nghĩa là đánh xong Pháp thì đến lượt chúng tao họ làm cỏ, của cải họ đem chia. Đấy, rồi mày xem, có đúng không ?”

Nhật Tân cãi bừa:

“Còn có cụ Hồ…”

“Có thể ông ấy là một anh hùng, một ông hiền, một ông thánh nữa. Nhưng cái lối sống khắc khổ, nhạt nhẽo và gò bó, ăn không cần ngon, mặc không cần đẹp, hùng hục làm việc, mày nghĩ xem, còn có cái thú gì ?”

Nhật Tân nhìn Tân, con mắt nhỏ chứa cả giận và tuyệt vọng:

“Mày thích cái lối sống của mày, tao thích cái lối sống đời mới. Mày muốn sống thế nào? Như Nguyễn Hải Thần nhà mày bói toán hút thuốc phiện ư? Như Nguyễn Tường Tam thụt két của Chính phủ ư? Như Trịnh Thục Oanh đưa gái cho Saten ư? cái thời đại nhơ nhuốc ấy đã qua rồi. Thế mày đứng đâu. Phía Pháp à? tao rùng mình cho mày đấy…”

Thế là hai người bạn thân đứng về hai phe đối nghịch nhau, ngược nhau về quan niệm sống, về quan điểm chính trị. Hoá ra cái nhân vật “phản diện” mà Nguyễn Huy Tưởng đưa ra, cũng chỉ là “con người chính trị”  giống y nhân vật chính diện, duy chỉ khác dấu nhau mà thôi. Nói cách khác, dù là nhân vật cách mạng hay phản cách mạng, chúng đều được xây dựng từ những sơ đồ chính trị-xã hội theo nhãn quan cộng sản mà Đảng buộc mọi nhà văn trong xã hội đều phải tuân theo.

Để cho nhân vật phản diện có vẻ có “tính người”, Nguyễn Huy Tưởng đã cho Tân làm một việc độc đáo. Vào ngày hoà bình cuối cùng của Hà Nội, Tân ra đầu phố mời 4 người đi qua đường, cho dù không quen biết, vào nhà để dự một bữa tiệc cuối cùng. Tân mở đầu bữa tiệc:

“Chúng ta không cần biết tên tuổi, nghề nghiệp, gia đình của nhau làm gì. Cần gì phải biết anh đang làm tự vệ hay sắp tản cư, anh là Việt Minh hay là Quốc dân đảng, anh có vợ hay chưa bị bó buộc, anh đang lo tình hình hay nhởn nhơ với nó, anh lạc quan hay bi quan, anh muốn sống hay muốn chết? tất cả những cái đó không cần thiết …chỉ cần biết rằng lúc này – Tân xem đồng hồ – là năm giờ mười lăm, có năm người Hà Nội còn sống, rất hay, toàn con số năm cả, năm người cùng họp với nhau, cùng ăn với nhau, ngay trên đất Hà Nội… trong khi ở phố Tràng Tiền bên trái, đường Trần Hưng Đạo bên phải, xe Pháp đang chạy ầm ầm, trong khi ở ngoài kia rất lạnh mà trong này còn ấm cũng. Để rồi chúng ta chia tay nhau như là đã không biết nhau…”

Một trò chơi thật lãng mạn, thật độc đáo của người Hà Nội trước lúc cơn bão lửa nổ ra. Chỉ có điều 5 con người tập trung ở mâm rượu này, nếu do chủ nhà ra đầu phố chọn tuỳ hứng thì ông tác giả lại phải định hướng cho cuộc chọn lựa. Như vậy hiển nhiên 5 con người đó không được gồm toàn những người “phản động” như Tân, hoặc những người cầu an sắp tản cư khỏi Hà Nội. Quả nhiên Nguyễn Huy Tường đã cho Tân chọn đúng ngay …anh giáo Trần Văn, một người đầu óc lúc nào cũng phiêu diêu trong giấc mơ làm liệt sĩ cách mạng. Rút cuộc lúc vào tiệc, Trần Văn đã giơ cao cốc:

“Đúng rồi. Chúng ta nâng cốc vì Tổ quốc, vì cụ Hồ. Vận mạng  của dân tộc chúng ta quyết định trong những ngày sắp tới, có khi ngay trong đêm nay. Sống chết vì Tổ quốc, sống chết vì cụ Hồ, linh hồn của dân tộc…”

Lẽ ra bữa tiệc 5 người này sẽ rất hay, sẽ đầy những tâm tình của người Hà Nội khi quê hương sắp chìm trong máu lửa. Tiếc thay, ông nhà văn đã “chính trị hoá” nó khiến nó trở nên giả tạo, sống sượng đến  khó chịu…

 

Giữa lúc Hà Nội sắp chìm trong bom đạn, dân tình nháo nhác tản cư, đời sống rất khó khăn, thiếu thốn, nhưng ông Tân chủ nhà cũng bày tiệc rất rôm rả: “nem chua, chim quay, vịt hầm, thang, thịt gà luộc, cơm trắng, tráng miệng cà phê…”  và mời mọc rất hào phóng:

“Tất cả những chai rượu đây là để thết các bạn. Nút đã mở sẵn. Các bạn cứ tự ý rót, hoàn toàn tự do. Uống bằng hết. Không uống hết thì ta đổ đi. Bởi vì ngày mai, và có thể ngay lúc này, không có gì là chắc cả. Các món ăn, cũng gầy còm thôi, tôi sẽ đem hết lên đây, các bạn muốn ăn gì trước, muốn ăn gì sau, tuỳ hết. Bữa tiệc cuối cùng không có gì là gò bó…”

Khách dự tiệc ngoài anh chỉ huy tự vệ Trần Văn ra còn có Vũ Minh, một học sinh ở phố Nhà Thờ. Anh chàng này chẳng biết nói gì, chỉ thốt lên :

“Quái dị…”

Người  khách bất đắc dĩ thứ hai là nhạc sĩ Thu Phong “trong lúc buồn rầu nhớ tiệm và dàn nhạc, anh thuê xe lần xuống Bạch Mai để hát cô đầu giải muộn và dối già …anh đang đói nên Tân mời là vào ngay…”

Người khách thứ ba là Ben-la, một chủ hiệu ảnh “đi mua được mấy chục cuốn phim dự trữ  để tính chuyện về quê làm ăn …Vẻ mặt nhạt nhẽo, tầm thường không có cá tính. Anh đeo cái máy Kodak một bên, một bên là cái túi da đựng phim, sẵn sàng có gì là chạy…”

Tất cả bốn người, người nào cũng như tôn trọng đề nghị của ông chủ nhà kỳ dị, không ai tự giới thiệu với ai. Không ai muốn phá cái không khí bí mật, gần như hoang đường ấy. Bởi thế Tân, chủ nhà phải khuyến khích mọi người nói:

“Các bạn cứ hoàn toàn tự do. Ta nói chuyện đi, chuyện trời đất, chuyện  trai gái, chuyện dâm dục, chuyện chính trị, tha hồ. Miễn là tiệc của năm người Hà Nội không chết …”

Người cao giọng, cà kê dê ngỗng dạy dỗ thiên hạ lại vẫn là anh cán bộ Trần Văn.  Anh trách cứ  thanh niên Hà Nội không có lý tưởng “thường chỉ đuổi theo cái ăn cái mặc, lao tâm khổ tứ vì cái ăn cái mặc, cả cuộc đời rút lại chỉ là cái ăn cái mặc”.  Anh trách“cô tân thời ăn mặc sang trọng, ngồi trên xe tay nhà gọng đồng sáng loáng đi chợ Đồng Xuân”  sống làm gì ? Anh chê “anh công tử một sơ mi hàng ngày chải đầu bóng mượt, thắng bộ quần áo bảnh bao đi diện phố, lậu vé xinê rồi buổi tối về, chờ cho mọi người đi ngủ, mới cởi áo đem giặt, phơi phóng rồi nằm ngủ cởi trần, kết thúc một ngày vô lý  …”  Anh cán bộ tự vệ này phàn nàn: “Tôi đã từng trông thấy những người Hà Nội suốt đời chỉ có một mục đích là cái bát phở buổi sáng, họ đem hành tây, họ đem trứng đi, đến hàng phở quen, họ đánh dấu bát để đưa chan, họ hỏi hồ tiêu, họ đòi ít ớt, họ xin ít nước béo, họ vùi đầu vào bát phở một cách thô tục, xấu xí, rồi họ ra đi một cách tự mãn …Con người mà thế thì buồn lắm….Phải khác …”

Nhân danh một người Hà Nội lại mạt sát văn hoá ẩm thực của Hà Nội, ông nhà văn tưởng rằng hạ thấp cách sống của người Hà Nội sẽ tôn vinh được “văn hoá cách mạng” vốn có cốt lõi là “diệt trừ sự hưởng thụ”, ngờ đâu, khi “cơn bão táp” cách mạng đi qua, cái còn lại với thời gian lại chính là những giá trị văn hoá. Nếu còn sống đến ngày nay, chắc chắn ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sẽ đục bỏ những lời lẽ xúc phạm nghệ thuật ăn phở của người Hà Nội thô bạo đến thế.

Vậy ông nhà văn đòi hỏi người Hà Nội phải sống khác ra sao? Ông nói:

“Ngoài cái ăn cái mặc ra, còn phải suy nghĩ làm sao có thể giúp ích cho đời, phải có cái gì đó để lại, nó đánh dấu sự tồn tại của một con người, nó nâng con người lên trên cái ăn cái mặc. Đấy là lý tưởng, đấy là lý do sự có mặt của mình trên trái đất…”

Lời lẽ của anh cán bộ tự vệ lúc đã ngà ngà say thật đúng là văn…bia. Chỉ buồn một điều là cả cái thế hệ “tự vệ thủ đô” ngày ấy  đã để lại được cái gì có ích cho đời? Đưa cả dân tộc vào khói lửa 9 năm chinh chiến chống Pháp, 10 năm chống Mỹ, đói nghèo vẫn hoàn đói nghèo và chính họ lao vào cuộc đấu đá giành giật “cái ăn cái mặc” dẫn tới quốc nạn tham nhũng ngày nay.

Có lẽ do ngán ngẩm bài “diễn văn” sặc mùi chính trị của ông cán bộ tự vệ, ông thợ ảnh rút lui trước, còn cậu học sinh ở phố  nhà thờ Vũ Minh bỗng dưng cũng nổi máu “yêng hùng” đứng dậy hùng hồn:

“Rất đồng ý, nâng cốc vì Tổ quốc, vì cụ Hồ. Tôi cũng rất phục cụ Hồ, hai tháng trước đây, tôi đã làm hàng rào danh dự đón ông Cụ ở Pháp về. Nhưng xin nói thêm: nâng cốc vì thắng lợi  nữa…”

Tuy thế, trong lời lẽ của anh học trò này còn có đôi chút “lãng mạn”:

“Nếu có đánh nhau thì những người đã dự bữa tiệc này không ai chết… và ông chủ sẽ có thể một ngày nào đó lại cho chúng ta ăn một bữa cơm no say như thế này…”

Ông nhạc sĩ sau lúc đã qua cơn đói rồi, cũng bắt chước ông cán bộ tự vệ, đứng dậy hùng hồn:

“Tôi nói thật bởi vì trong cái đời giang hồ của tôi, hết bar này tới bar khác, Pháp đánh cũng có, Nhật chửi cũng có, Tàu bợp tai cũng có, trong nam ngoài bắc, cả cái đất của Thống chế họ Tưởng nữa, ở đâu cũng thế thôi, chưa bao giờ tôi được sống cái phút say sưa như thế này …”

Bữa tiệc gặp gỡ ngẫu hứng của 5 văn nghệ sĩ trí thức Hà Nội là như thế, họ toàn nói những câu nặng mùi chính trị, bày tỏ lòng căm thù giặc Pháp, lòng tôn kính cụ Hồ, bài bác tính cách hưởng thụ của người Hà Nội. Khi tưởng tượng ra bữa tiệc đầy ý nghĩa này, ông nhà văn thiếu hẳn cái tình cảm xót xa của người Hà Nội khi Thăng Long sắp trở thành chiến địa, thiếu hẳn những phản ứng tâm lý, những hành vi rất riêng, đầy tính lãng mạn của người Hà Nội – nhất là văn nghệ sĩ trí thức – trong giờ phút hiểm nghèo này, thiếu hẳn những dự cảm tương lai của Hà Nội khi bước vào cuộc chiến đẫm máu. Với một tài năng văn học thực sự thì nhất định người đọc sẽ được thưởng thức một “bữa tiệc cuối cùng” của 5 người Hà Nội lãng mạn hơn, “con người” hơn là những đối thoại dài dòng, chính trị một chiều này.

Không khí chuẩn bị chiến đấu mỗi lúc khẩn trương khắp thành phố và lạ thay càng tới gần giờ G đó, người Hà Nội càng có vẻ … hăng hái giác ngộ cách mạng, thấm nhuần tư tưởng “quốc tế vô sản”  mácxít-lêninnít. Anh học sinh đặc sệt tiểu tư sản tên Loan, đang ở trong tiểu đội tự về làm chân vẽ bản đồ khi nhìn thấy người mẹ Tàu cho quà con nít Việt Nam đang theo mẹ tản cư cũng làm ngay một thuyết lý chính trị với cô Quyên – nữ sinh tham gia cách mạng:

“ …Chị có thấy không, người mẹ Tàu chẳng khác gì mẹ Việt Nam. Các bà mẹ đều là hiện thân của sự hy sinh lặng lẽ…”

Vậy là đã có sự phân biệt giữa bọn Tàu ô mang cờ thiên thanh bạch nhật sang cướp bóc nước ta với người Trung Quốc chân chính như “người mẹ tàu” cho quà con nít Việt Nam kia. Cô Quyên vốn được chị Oanh, cán bộ phụ nữ giao nhiệm vụ làm thư ký cho ông bác sĩ Pháp mới về để “khám phá ra một tổ chức phá hoại”. Ai ngờ, vừa gặp , ông bác sĩ – tên Pha, đã xổ ra một tràng “lập trường cách mạng” làm cô Quyên cứ tròn xoe cả mắt:

“Tôi đã sống những ngày kháng chiến Pháp ở Paris. Không có những việc đục tường, đào hố như ta. Thanh niên Pháp cũng không có những lời thề đanh thép: “Sống chết với Thủ đô” như thanh niên ta. Làm gì họ có người mẹ sắm súng cho con  ở lại, chồng cho vợ về quê để vào tự vệ, em bé nằn nì xin vào bộ đội. Cả một dân tộc đứng lên. Quây chung quanh một chính phủ, thà hy sinh tất cả chứ không chịu trở về đời nô lệ, mais c’est inoui, c’est  magnifique …”

Một ông bác sĩ Việt kiều vừa ở Pháp trở về mà ăn nói không thua gì một ông cán bộ Việt Minh ở trong nước. Điều này càng chứng tỏ Nguyễn Huy Tưởng tuy đưa ra nhiều loại nhân vật trong tiểu thuyết mà rốt cuộc người ta chỉ thấy có một mà thôi: người công dân yêu nước, yêu cụ Hồ, giác ngộ cách mạng  và nói năng như… cán bộ.

 

 

Tất nhiên để xây dựng nhân vật ông bác sĩ mới từ Paris trở về  theo lời kêu gọi của cụ Hồ, ông nhà văn phải cho nhân vật nói năng có tí ti tiếng tây không thì lẫn với các cán bộ :

“Tôi rất vui được sống ở Hà Nội những ngày tuyệt đẹp như thế này. Những cái phố rất Việt Nam, đi đâu về mới càng thấy quý, những tên phố rất nên thơ, những con người rất sympathiques, tout pour une noble cause, như cô chẳng hạn, gentile mademoiselle… C’est de quoi nous enorgueillir…”

Rồi ông bác sĩ Việt kiều còn khuyên cả mấy anh cán bộ … “làm thơ” nữa:

“Phải làm thơ chứ. Kháng chiến Pháp buồn lắm. Paris vẫn yên như không, chẳng có gì là kháng chiến cả. Thế mà những nhà thơ của nó làm như đẹp lắm, to lắm. Cả thế giới biết. Huống chi là ta …”

Tính cách ông này giống như một tay bẻm mép, một gã ba hoa, nhiều hơn là một ông đốc tờ… Ấy thế mà những lời “vàng ngọc” của ông bác sĩ ở Pháp về lại làm rúng động tâm can anh tự vệ tên Loan, vốn là học sinh đặc sệt tiểu tư sản, “từ hôm đến đây, Loan đã cho rằng chẳng bao giờ mình còn làm thơ nữa. Cuộc đời sẽ chỉ còn chém giết, là đổ nát, là căm thù, là chết chóc, chẳng có gì là đẹp”; anh còn cực đoan hơn nữa khi  cho rằng:  “Mơ mộng gì nữa khi bầu trời Tổ quốc không còn là bình minh của hương sắc mà đục ngầu những hình thù tối đen của mũ đỏ và thổ phỉ…”.  Những tưởng anh chàng Loan này từ nay sẽ trở thành một chiến sĩ không tim, chỉ biết nhắm mắt cầm súng bắn quân thù, “may thay”, được nghe ông bác sĩ Việt kiều “diễn thuyết”, Loan bỗng tỉnh ngộ “bàng hoàng như người tìm thấy một vật quý tưởng như đã mất…”.

Mặc dầu sự “giác ngộ” của Loan là đáng ngờ, nhưng ông nhà văn đã quên khuấy mất “phận sự” nhà văn cách mạng của mình, bởi lẽ vai trò “đả thông tư tưởng” cho cán bộ, nhân dân là thuộc về người của Đảng chứ không phải ông bác sĩ Việt kiều. Ông này mặc dầu đã về nước tham gia cách mạng theo lời kêu gọi của cụ Hồ nhưng vẫn thuộc “phần tử đáng ngờ”, bởi thế cô cán bộ Oanh phải cử hẳn cô nữ sinh Quyên luôn đi cặp kè để giám sát coi ông bác sĩ có “ tổ chức phá hoại” nào không? Ở đây ông nhà văn vô tình đã phản ánh cái bản tính luôn luôn nghi kỵ của Đảng, luôn luôn ngờ vực và không tin bất kỳ ai ngay cả khi  họ chỉ mang tới những điều tốt đẹp cho xã hội.

Quả nhiên cô giám sát viên tên Quyên “đưa mắt nhìn Loan như để bảo bạn không nên tin cái ông bác sĩ. Xui người ta làm thơ là để quên việc chuẩn bị đánh. Đi lang thang ngoài phố là để nghe ngóng tình tình hình. Khen mình giỏi để không ai nghi ngờ nữa…”.

Đọc tới đây người đọc phải thắc mắc không hiểu Đảng giáo dục cách nào mà cô nữ sinh Hà Nội tên Quyên này có được “tính Đảng” nhanh quá vậy? Cô nhìn nhận mọi sự ở trên đời qua đôi mắt “cảnh giác” của công an. Người ta khuyên nên làm thơ cô lại cho rằng đó là xui dại để quên chiến đấu, người ta đi lang thang phố cô lại nghi rằng đi nghe ngóng tình hình. Cô lại còn tự hào “giấu thế nào được  Quyên. Sắp đánh nhau rồi còn đi mua táo, kháng chiến gì những người này. Lại vẫn còn nói tiếng Pháp, chỉ riêng việc này cũng chứng tỏ rằng lão này nặng tình cảm với địch. Mới ở Pháp về yêu nước làm sao được?”. Than ôi, có một “nữ giám sát viên” như cô nữ sinh Quyên này người ta thấy rõ ông bác sĩ Pha khó mà sống sót được với cách mạng và chẳng bao lâu nữa chắc chắn ông sẽ phải hối hận đã nghe theo cụ Hồ về nước tham gia kháng chiến. Rất may cuốn “Sống mãi với Thủ đô” mãi tới năm 1960 mới xuất bản chứ nếu nó ra đời từ năm 1946 là năm cụ Hồ kêu gọi trí thức Việt Nam ở Pháp về nước đóng góp cho cách mạng thì sau khi đọc tiểu thuyết của ông Nguyễn Huy Tưởng chắc bà con Việt kiều sẽ “bỏ của chạy lấy người” về Pháp.

Càng gần tới giờ G, giờ nổ súng đánh Pháp, người bận rộn nhất trong hàng ngũ cách mạng phải kể tới ông Liên khu trưởng Liên khu 1 Quốc Vinh. Tất nhiên, ông phải là cộng sản gộc với đầy đủ phẩm chất của một cán bộ lãnh đạo Đảng. Ông nguyên là một thợ nhà in rồi đi làm cách mạng. “Hồi bí mật, có nhiều lúc khó khăn, anh bị đói khát, bị truy nã, nhưng việc tuyên truyền, vận động quần chúng thẳng một chiều anh thấy còn dễ. Ngày bị bắt, vấn đề chỉ là cắn răng chịu đựng để không phản bội…”. Vậy là ở cái cương vị Liên khu trưởng Liên khu 1, Nguyễn Huy Tưởng đã đặt một nhân vật đúng khuôn mẫu lý thuyết  của cán bộ cộng sản: xuất thân công nhân, đi làm cách mạng, bị địch bắt, bị tra tấn vẫn giữ khí tiết cách mạng. Thế nhưng ở cái ghế lãnh đạo cao nhất một liên khu quan trọng nhất ở Hà Nội,  cái ông xuất thân thợ in ấy, rồi biết xoay xở ra sao?

“Nhưng bây giờ thì công việc như rừng. Anh chỉ nghĩ chung chung mấy điểm, nắm vững lực lượng đồng chí, dựa vào quần chúng, bồi dưỡng tinh thần kháng chiến quyết tâm diệt địch đến cùng…”.

Vậy tức là “đồng chí” Liên khu trưởng chẳng cần tới kế hoạch tác chiến, nắm vững tình hình địch ta, chẳng cần suy nghĩ gì về chiến lược chiến thuật, chỉ cần nắm chung chung, nắm các đồng chí và dựa vào quần chúng giáo dục họ tinh thần quyết chiến là… hoàn thành nhiệm vụ. Ta hãy xem ông cán bộ lãnh đạo giải quyết sự vụ hàng ngày:

“Đồng chí thư ký đọc từng việc ghi trong sổ :

− Tuyên truyền đang bí bài hát. Đề nghị giải quyết…

− Có Diệt phát xít, Bao chiến sĩ anh hùng, còn gì nữa…

− Không đủ ạ…

− Thì có cậu gì mới đến đấy, bảo làm thơ thêm vào…

− Các chị đề nghị hát Suối mơ, Đàn chim Việt…

− Đánh nhau mà lại Suối mơ …”

Rõ đúng tính cách một anh cán bộ cộng sản, tình hình đang dầu sôi lửa bỏng mà vẫn không quên “lãnh đạo toàn diện”, cấm đoán cả đến một bài hát. Vậy là ngay khi Đảng vừa cầm quyền, những nhạc phẩm bị quy là “nhạc vàng” đã bị bỏ tù dài hạn mãi gần nửa thế kỷ sau vào thời đổi mới lần lượt mới được tha bổng.

Vào trước ngày toàn quốc kháng chiến, người ta cứ tưởng sau lời hiệu triệu của ông Hồ Chí Minh muôn người sẽ kề vai sát cánh, chung một chiến hào mà đánh giặc Pháp. Sự thực nếu đi sâu vào cơ cấu quyền lực ta sẽ thấy đó chỉ là cái vỏ ngoài, thực chất những người cộng sản nắm quyền lãnh đạo tuyệt đối, thiết lập một ranh giới “trong Đảng – ngoài Đảng” trong mọi công việc. Bởi thế ông Uỷ viên quân sự Văn Việt là người ngoài Đảng nên “mù tịt” chẳng biết sẽ đánh đấm ra sao.

“Văn Việt đẩy cửa chạy vào nét mặt hầm hầm. Cái ve áo bludông tím của Văn Việt đã đính cái huy hiệu Hồ Chủ tịch mà anh chỉ đeo khi có việc quan trọng hay trong ngày lễ. Văn Việt hỏi:

“Ông Quốc Vinh, tôi muốn ông nói rõ cho tôi.”

“Cái gì thế, tôi tưởng anh đang bố trí ở hãng Sauvage.

Quốc Vinh bắt tay Văn Việt có điều không hài lòng. Văn Việt nói:

− Chúng ta chủ động đánh nó hay nó đánh ta? Tối nay, mình hay là nó? Tôi là uỷ viên quân sự, tôi phải biết chứ ?”

Ông uỷ viên quân sự nhầm lẫn ở chỗ dù ông có là uỷ viên trời, nhưng không phải là đảng viên cộng sản thì ông chỉ được biết những gì Đảng cho phép thôi. Bởi thế nghe ông Uỷ viên quân sự cằn nhằn, ông cán bộ cộng sản vẫn điềm nhiên:

“Tất cả những điều anh muốn biết rồi anh sẽ biết. Không có điều gì giấu anh cả. Kế hoạch sáng ngày đã bàn rồi, anh cứ làm như thế…”

Vậy là ông uỷ viên quân sự không phải đảng viên chỉ được phép biết đến đó, cứ theo đó mà làm đừng có đòi cái quyền được cung cấp thông tin như của cán bộ đảng viên khác.

“Văn Việt cau mặt, nhún vai, tay đập mạnh vào bao súng. Lời nghẹn trong cổ:

“Được. Các ông bảo làm gì, tôi làm cái ấy. Tôi hoàn toàn chịu quyền chỉ huy của các ông kia mà. Cái kiếp một thằng quần chúng vĩnh viễn là như thế thôi. Nó có được  biết cái  gì đâu ?”

Thật đúng là một ví dụ cụ thể và sinh động về việc Đảng đã chiếm đoạt quyền lực của nhân dân từ rất sớm, từ ngay trong những ngày cần thiết phải huy động toàn dân tộc đương đầu với ngoại xâm. “Cái kiếp một thằng quần chúng vĩnh viễn” càng về sau càng thê thảm hơn: những giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Bùi Huy Đáp, Lương Định Của, luật sư Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ… những trí thức “ngoài Đảng” chắc sẽ thấm thía hơn ai hết khi đọc đoạn này trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng.

 

Thế rồi cái giờ G., giờ tự vệ Hà Nội nổ súng vào quân đội Pháp cũng đã tới. Vào cái giờ phút long trọng này, ông Liên khu trưởng Quốc Vinh ngồi với chị cán bộ Oanh và nói vào máy điện thoại:

“Pháo đài Láng chuẩn bị pháo lệnh kháng chiến…”

Trong giờ phút tối quan trọng, cần tập trung mọi suy nghĩ vào việc chỉ huy chiến đấu thì ông Liên khu trưởng lại …suy nghĩ về bác Hồ:

“Quốc Vinh cầm lấy cái ảnh Hồ Chủ tịch đặt trên bàn rồi lại để xuống. Anh chưa được gần người đồng chí già ấy bao giờ. Trừ cái ngày mồng hai tháng chín ấy… Đứng dưới lễ đài để bảo vệ, anh ngước lên, thấy lẫn với nhiều người, lẫn với cờ và ô, nhà cách mạng lăn lộn khắp năm châu trở về, đen sạm vì nắng mưa và sốt rét, vừa ho vừa đọc bản Tuyên ngôn độc  lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Lúc này đây, lãnh tụ đang trông ngóng chờ anh. …”

Trong số các nhà văn của Đảng, Nguyễn Huy Tưởng có lẽ chiếm giải quán quân về “nâng bi lãnh tụ”, chỉ sau Tố Hữu và ngang ngửa với Chế Lan Viên. Sau khi “cơn yêu lãnh tụ” đã qua đi, ông chỉ huy mới nhớ tới các đồng đội:

“Trong cái vắng lặng của một cuộc đời đang thay đổi lớn, anh cảm thấy đất ở dưới chân anh chuyển động. Anh như đang trông thấy, nghe thấy đồng chí và đồng bào tiến sát tới cầu Long Biên, Cửa Đông, Cửa Bắc; Vi Dân đã chôn bom ở Cửa Nam; những ống hơi của của Sinh sắp nổ trong lò than của xưởng giặc trong thành; phủ Bắc bộ đã sẵn sàng, các ô cầu Rền, ô Chợ Dừa, ô Cầu Giấy đang vít chúng nó lại, trường bay Gia Lâm sắp bốc cháy; xa xa cầu Đuống sắp được chiếm lại, xa nữa Bắc Ninh; xa nữa Huế, Sài gòn đang hướng cả về thủ đô…”

Bỏ qua cái “lãng mạn không đúng lúc” của ông chỉ huy quân sự lẽ ra lúc này phải tập trung hết tinh lực để đón nhận tin tức chiến trường báo về và có ứng phó kịp thời, bỏ qua cái tính cách hết sức vô lý đó, người đọc có thể thấy trên khắp mặt trận toàn Hà Nội chỉ thấy toàn tự vệ với nhân dân mà không thấy bóng dáng “bộ đội chính quy”  ở đâu ngoài mấy anh lính người Thượng canh gác Bắc Bộ phủ. Như vậy đủ thấy cho mãi tới ngày 19 tháng 12 năm 1946, lực lượng vũ trang của Đảng vẫn còn quá mỏng, bởi thế cuộc giành chính quyền tháng 8 năm 1945 chủ yếu là do nhân dân đứng lên trong sự im lặng “bất can thiệp” của cả chục ngàn lính Nhật vẫn còn nguyên vũ khí. Từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, những người cộng sản dường như đã “tiếp quản” chính quyền từ tay nhân dân mà không đổ một giọt máu và ngay lập tức họ biến nó thành của riêng và dồn hết tâm lực thiết lập chế độ độc quyền lãnh đạo, toàn trị cho tới tận ngày nay.

Kim đồng hồ vẫn nhích tới giờ G và ông chỉ huy quân sự vẫn miên man trong những suy nghĩ “trừu tượng” tận  đẩu tận đâu:

“Trên con đường tiến lên đạp đổ mọi ngai vàng và xiềng xích, dẫn đến công lý và hạnh phúc, anh đã trông thấy nhiều máu phải chảy ra, nhiều đầu phải rụng xuống. Giờ đã đến mà sự chém giết sẽ dữ dội hơn nữa, đồng bào anh sẽ trải qua những tang tóc lớn lao. Nhưng cách mạng cứ phải đi  và cuốn theo nó hàng vạn, hàng triệu con người trong đau thương và trong tin tưởng, đứng dậy, lớn lên…”

Vậy người cộng sản đã biết trước cái giá phải trả của dân tộc cho cuộc cách mạng mà họ tiến hành. Dẫu rằng “nhiều máu phải chảy ra, nhiều đầu phải rụng xuống”, mặc kệ, “cách mạng cứ phải đi” kéo theo hàng triệu người chết trong đau thương. Có vẻ coi cái chết  của nhân dân “nhẹ tựa lông hồng”, mạng sống của con người như con sâu cái kiến, nên những người cộng sản tuyệt nhiên không bao giờ nghĩ rằng liệu còn có con đường nào khác không phải đổ xương đổ máu mà vẫn giành được độc lập tự do cho dân tộc? Không, họ không bao giờ có ý nghĩ “phản loạn” thế. Họ coi hàng triệu người nông dân rồi đây sẽ ngã xuống chẳng có mấy ý nghĩa, cái cao hơn hết thảy là sự nghiệp của Đảng, là sự tận diệt các đảng phái, các nhóm đối lập chính trị để Đảng khư khư độc quyền lãnh đạo – đó mới là cái đích tối cao họ nhằm tới.

Và rồi “Phút cuối cùng. Và phút đầu tiên”.

Họ nín thở lắng nghe . Trong cái tĩnh mạc của thành phố bỗng có tiếng sành sạch, sành sạch, tiếp theo một tiếng nổ ùng oàng vang trời. Oanh nảy người, giữ lấy đồng chí ngồi bên, kêu :

“ Có lẽ rồi…”

Quốc Vinh đứng dậy nói to như để bù lại những ngày uất ức:

“ Tiêu diệt thực dân Pháp…”

… Họ ôm choàng lấy nhau trong bóng tối; giữa những tiếng reo ngoài phố khi đèn tắt, tiếng chân chạy ngoài đường  và tiếng chó sủa vang. Họ chuyền cho nhau sổ tay để ký dưới ánh sáng lay động của những ngọn nến…”

Thật không thể hiểu nổi tại sao vào giây phút thành phố bắt đầu vào cơn huỷ diệt, máu bắt đầu chảy, xác người bắt đầu chồng chất vậy mà các vị “cán bộ” này lại trao sổ  để ký lưu niệm cho nhau! Ba ông bà cộng sản có khi nào làm cái việc “tiểu tư sản dở hơi” này đâu, nó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của ông nhà văn để tăng thêm chất “tiểu thuyết” cho cuốn truyện vậy thôi.

Tuy nhiên từ giờ phút này, sau tiếng pháo lệnh của pháo đài Láng, tất cả những  người Hà Nội, người cách này, kẻ cách khác, nhưng tất cả đều  đã bước vào cuộc chiến tranh mà ít ai ngờ ràng nó kéo dài tới 9 năm nữa.

Trước tiên là Trần Văn – anh giáo trường tư, quên cả mẹ nơi tản cư mà mơ mộng: “Khi xe tăng giặc đến thì mình phải nhảy ra mà ném chai ét xăng  cơrếp rồi quăng lựu đạn. Dũng cảm hơn, phải lao vào xe, cầm một khúc gỗ đút vào xích xe cho nó bật ra khỏi bánh…”. Ấy thế mà khi tiếng súng toàn quốc kháng chiến nổ ra, Trần Văn lại đang đi …hát cô đầu và ngủ dậy muộn. Thực ra sẽ có những trang tuyệt hay nếu ông nhà văn miêu tả cái cuộc hát cô đầu ấy vào lúc nổ ra tiếng súng toàn quốc kháng chiến. Nhưng ông nhà văn đã không làm chuyện đó, ông cho Trần Văn  tỉnh dậy và chạy thục mạng ra phố.  “Vừa nhảy xuống đường hàng Khay, anh vấp ngã, nằm lên một xác người, tay anh mó vào một khúc ruột lầy nhầy. Anh giật bắn người lên, rùng mình và nghẹn cổ…” Vậy là Trần Văn thay vì trở thành một dũng sĩ đánh bom ba càng thì lại trở thành một anh chạy trối chết trên đường phố Hà Nội để chứng kiến cuộc chiến đang diễn ra.

“Bóp hàng Trống đang đánh dữ, hình như có nhiều xe ùn lại. Nhà hát Lớn nghe ra cũng có tiếng súng. Anh chạy núp vào trong tháp Báo Thiên, theo cái bản năng tự vệ… Một đoàn xe tiến xuống Tràng Tiền, đèn pha của cái đi đầu chiếu một vệt sáng dài. Anh tự hỏi sao vây nó trong thành rồi mà xe nó vẫn lồng ra được ? Phủ Bắc Bộ đưa lại những tiếng liên thanh cục cục rõ mồn một, và những tiếng súng trường gióng một mà anh có cảm tưởng người ta ngắm kỹ lắm rồi mới bắn…”

Theo chân nhân vật Trần Văn, tác giả diễn tả cuộc chiến đấu ác liệt của người Hà Nội chống Pháp.

“Anh đi trên hè, phút lại lủi vào bờ, ôm lấy thân cây. Bên kia, trước cái bãi ô tô gần nhà bưu điện, lố nhố hai bóng người. Anh định thần thì thấy họ đang lúi húi mỗi người chặt một cây. Một đoàn xe Pháp chạy rầm rộ trên đường hàng Khay bắn lẹt đẹt sang….”

Cuộc chạy trốn của Trần Văn đưa anh tới Nhà máy điện – ở đây anh chứng kiến bi kịch não lòng của Trinh, người yêu cũ, bỏ anh đi lấy chồng giàu. Hình như cái sự “tham vàng phụ ngãi” gây cho tác giả  mối ác cảm ghê gớm lắm nên ông đã cho gia đình Trinh tan nát đứng vào lúc cả hai vợ chồng sắp lên máy bay đi Pháp.

“ Bao – chông Trinh đã lấy được vé máy bay để sáng mai cùng đi với vợ chồng viên Giám đốc sang Pháp. …Thế rồi nổ súng, điện tắt. Vợ chồng Trinh và vợ chồng viên Giám đốc ở trên gác chạy xuống hầm. Họ còn đứng trước thềm lúng túng trong bóng tối thì tên lính Pháp xồng xộc tới. Bao chỉ kịp thét Trinh ra hầm thì đã bị bắn gục ngay trên thềm….”

Vậy là tai hoạ đã giáng xuống, chỉ trong nháy mắt gia đình Trinh đã tan vỡ. Đúng lúc này, Trần Văn, người yêu cũ của Trinh đã xuất hiện như một định mệnh để giúp cô qua được những bất hạnh đang đổ ụp xuồng đầu…

 

 

Thấy Trần Văn ẵm giúp con mình, Trinh tưởng rằng “anh nghĩ về mối tình cũ” với cô nên mới sốt sắng vậy. Nhưng cô đã nhầm ,“đối với mối tình đầu, anh gần như đã nguội lạnh và cho đấy là một thắng lợi lớn của tình cảm…”. Đã xác định tình yêu theo kiểu “đánh trận” như vậy trách nào chàng chỉ huy tự vệ chẳng thấy “trước mặt, Trinh chỉ là một người cơ nhỡ, một nạn nhân của chiến tranh. Nhìn Trinh nhỏ bé trong bóng tối, lảo đảo vì mệt mỏi, khuỵu luôn, trật giày luôn, anh thấy ngậm ngùi thương hại”. Vậy chỉ còn thương hại thôi, tình yêu đã chết thật rồi, lòng anh chỉ còn nghĩ tới “anh em sắp gặp”, tức nghĩ tới cuộc chiến  đấu thôi. Thế rồi anh đưa Trinh và con cô tới nhà cụ Tĩnh Trai, “một tay thích chơi hoa, nhà ở giữa phố, chỉnh tề khăn xếp, cộp cộp giày ban đi ra. Mọi người đã lục tục vào hết. Cụ hỏi:

“Thế nào các đồng chí ?”

Nhật Tân nói:

“Chúng cháu vừa phá xong nhà máy đèn. Các nơi xong hết rồi…”

“Thế là mừng. Sau cái vụ Yên Ninh, cái vụ Đồng Xuân, tưởng là chết hết. May ra yên được. Tôi đang lo cho cái hoa quỳnh nhà tôi mười hai giờ đêm nay nở, không ai đến xem. Chè bánh sẵn cả. Mời các đồng chí chốc nữa vào chơi. Hoa quỳnh nở là hiếm, lại vào đúng đêm nay. Điềm lành mừng cụ Hồ. Tới cả cho vui nhé. Đúng giờ, chỉ mấy phút nó tàn thôi. Phải xem lúc nó đang nở mới đẹp…”

Người ta có thể đặt câu hỏi liệu giữa lúc đầu rơi máu chảy, bom đạn dày đặc như đêm mở đầu toàn quốc kháng chiến này, liệu có ai bầy tiệc để mời khách tới xem hoa quỳnh nở chăng?  Quả thực ông nhà văn đã quá đà trong mô tả cái “thong dong vào trận” của người Hà Nội làm người đọc khó mà tin nổi phải đặt dấu hỏi về tính xác thực của nó.

Ở nhà cụ Tĩnh Trai thật bất ngờ Trần Văn gặp lại đơn vị anh chỉ huy bị lạc sau đêm anh …đi hát cô đầu và ngủ quên. Mọi người reo lên quây Trần Văn vào giữa. “Người nào cũng có vẻ nai nịt như sắp đi đâu. Anh đứng tần ngần thấy mình như xa lạ. Xem ý thì không có anh ở nhà cũng không có gì lộn xộn lắm. Họ lại niềm nở, không lạnh lùng với anh như anh tưởng…Mộng Xuân rỉ tai anh :

“Đi đánh nhà Sauvage. Thôi, ta nói chuyện sau. Đi thôi, mười một giờ rồi. Các chị đã sửa soạn chờ liên hoan chúng ta thắng trận trở về. Lệnh phải tiêu diệt cho bằng được bọn lính Pháp ở đấy. Thu bằng được toàn bộ vũ khí…Khẩu súng và lựu đạn của anh, chú Lai giữ…”

Người ta phải thấy lạ rằng trong khi đơn vị nhận nhiệm vụ chiến đấu, viên chỉ huy bỏ cả súng đạn ở nhà để đi hát…cô đầu, lạc mất đơn vị, thế mà vẫn không sao, lúc vô tình gặp lại đơn vị anh ta vẫn chỉ huy chiến đấu như không có chuyện gì xảy ra. Vậy thì kỷ luật chiến trường ở đâu, sắp chiến đấu mà đào nhiệm chắc chắn sẽ phải ra toà án binh lĩnh án tù.

“ Trần Văn thắt dây súng lục, giắt hai quả lựu đạn của anh. Anh nghĩ sẽ không oán thán gì nếu anh được chết trong trận đánh này để chuộc lại cái hành động đáng tiếc của anh…”

Và lúc này, lẽ ra phải nắm lại  tình hình đơn vị để chỉ huy tác chiến, thật đáng ngạc nhiên, Trần Văn lại nhớ tới chuyện đâu đâu. Không phải cô người yêu cũ mà anh bỏ lại, cũng không phải cây hoa quỳnh của cụ Tĩnh Trai sắp nở mà là… “một câu thơ của Victor Huygo đến với anh. Những người đi chết cho Tổ quốc được quyền có quần chúng đến bên linh cữu mình khấn vái…”  Lại một áp đặt khiên cưỡng của ông nhà văn lên nhân vật. Cũng may, phút cuối cùng Trần Văn cũng còn nhớ tới người yêu cũ mà anh đang cưu mang, anh cũng chẳng giúp gì được ngoài một câu từ biệt :

“Tôi có nhiệm vụ phải đi ngay. Tôi sẽ nhờ ông cụ giữ nhà này để chị tạm nghỉ lại  đây đêm nay. Nếu tôi được  trở về tôi sẽ thu xếp sau…”

Chỉ thế thôi, chàng chỉ huy tự vệ bỏ lại cô người yêu cũ với đứa con nhỏ trên tay bơ vơ giữa rừng tên mũi đạn để đi … chiến đấu. Sáng hôm sau Trinh đành phải bế con cùng bà vú xách va li tìm về nhà chồng – nhà Cự Lâm. Khi về gần tới nơi, bà vú bị đạn bắn chết, “Trinh gục đầu vào cái bọc của con và lịm đi, không dám nhìn xác người vú và cũng không còn thiết gì đến xung quanh…”. Sau cùng nàng cũng ôm con lết được về tới nhà. Bố mẹ chồng đã đi tản cư, còn lại một lũ em đều là dân “lá ngọc cành vàng” từ bé chưa biết thế nào là gian khổ. Truước  hết là Lan, cô em chồng của Trinh.  Khi điện tắt, súng nổ “Lan nấp vào cái khe giữa thành bể cạn và bức tường ngăn với nhà bên cạnh. Cái khe đã có từ ngày Lan còn bé nhưng chưa bao giờ Lan vào đây và cũng chẳng để ý, cũng như chẳng  bao giờ Lan để ý tới việc buôn bán của bố mẹ, đến nhiều việc khác trong nhà. Lan chỉ có cảm giác là nó hôi và ẩm ướt lắm, nhưng Lan cứ lách vào, lách vào mãi vẫn không vào được. Ẩn đâu cũng không thấy chắc, nấp đâu cũng không thấy kín….”

Cô tiểu thư Hà Nội, lúc súng bắt đầu nổ, “một luồng chớp xanh lẹt. Có tiếng kêu: “Núp xuống”. Mặt Lan vập vào thành bể và anh kia ngã dúi vào người Lan, như người đi tàu bị giật xô ngã vào nhau. Bỗng anh ta sát lại, hai cánh tay ghì chặt lấy ngực Lan, xoay mặt Lan lại, và hôn Lan. Lan ú ớ trong bóng tối, giãy ra, bất lực, sợ hãi, đê mê trong những vuốt ve điên dại mà Lan vừa muốn chống lại vừa muốn cho kéo dài. Rồi bóng người đàn ông ấy bị đẩy đi, người ta tranh nhau tìm những chỗ núp tốt nhất, chẳng hỏi gì Lan…”

Trong lúc lộn xộn mọi người tìm chỗ trú ẩn, nếu có một  ai đó tranh thủ ôm, hôn, vuốt ve điên dại một cô gái đang bơ vơ trong cơn hoảng hốt thì kẻ đó chỉ có thể là một gã  lưu manh, tranh thủ gỡ gạc và không dễ gì buông tha cho con mồi một khi đã buông thả. Với một kẻ như vậy, cô tiểu thư con nhà giàu Cự Lâm sống trong nề nếp gia giáo dễ gì trao thân cho gã một cách quá “bản năng” như vậy? Những tình tiết tưởng như rất tiểu thuyết hoá ra lại đáng ngờ, thiếu sức thuyết phục. Em gái của Lan là Hương  – một cô gái  xinh đẹp, có vẻ như không sợ bom đạn, tìm sang hàng xóm tập hát. Anh của Lan là Phúc – người yêu của cô cán bộ Oanh. Mặc dầu là công tử con nhà giàu nứt đố đổ vách nhưng Phúc lại là một tự vệ chiến đấu hết sức anh dũng.

“Sinh và Phúc rút xuống hầm, bắn giặc bằng khẩu anhđônisoa của đơn vị. Một chiếc xe tăng đỗ bên nhà máy nước bắn tập trung vào cái ổ tác chiến sơ sài. Hai anh em không ngóc đầu lên được, ôm lấy nhau. Chốc chốc Sinh lại nhô lên bắn… Họ bắn một phát thì chúng trả lời mười. Tình thế rất nguy nhưng họ không dám rút. Uỷ ban đã ra lệnh cho mọi người hễ lùi một bước là lấy đầu… Phúc nằm rạp xuống hầm, chết lịm đi. Anh bắn. Đạn không nổ. Anh bẻ súng để lắp đạn. Súng đã bị đất cát làm cho rít lại. Sinh bỗng thấy oán đại đội bỏ mặc họ ở đây suốt từ chập tối đến nửa đêm, oán ông Chủ tịch Uỷ ban, cũng cùng ở trong một công đoàn mà sao ra cái lệnh rất hắc với anh em ? Phúc kêu: “Ở đây thì chết. Rút thôi”. Họ luồn vào trong nhà thì cũng vừa lúc có lệnh cho rút….”

Vậy là cả nhà Cự Lâm – cho dù là tư sản,  từ con trai, con gái, dâu, rể đều tham gia chiến đấu hoặc ở lại với thủ đô trong giờ phút hiểm nghèo nhất. Phúc chạy về nhà gặp hai em gái là Lan và Hương, còn người yêu của anh là cô cán bộ Oanh thì bận đi chiến đấu. Một quả đạn rơi trúng nhà giết chết anh lái xe Thịnh và biến ngôi nhà thành cái địa ngục trong nỗi kinh hoàng của mọi  người. “Nghe tiếng cuốc đào huyệt ngay trong vườn, Trinh sợ chết khiếp, cứng người lại, lạnh như mình đang ở giữa một bãi tha ma… Trinh ôm lấy con nhưng tay cứ cứng đờ. Suốt mấy hôm nay, Trinh chỉ thấy những chết là chết…  Lù lù những xác chết đưa những cánh tay nghều ngào vồ lấy hai mẹ con Trinh. Trinh ngất đi…”

Trong lúc nhà ông Cự Lâm tràn ngập không khí chết chóc và hoảng loạn, từ ngoài đường đưa vào tiếng loa dõng dạc:

“A lô a lô! Thưa đồng bào yêu quý, Uỷ ban kháng chiến đã thành lập, kêu gọi toàn thể chúng ta đoàn kết, nhất trí, bình tĩnh và gan dạ, quyết tâm diệt địch, ra sức phá hoại để giữ nhà, giữ phố, chống giữ thủ đô đến cùng, xứng đáng với danh hiệu là người của đất ngàn năm lịch sử. Chúng ta hãy thực hiện đầy đủ các khẩu hiệu: mỗi phố là một mặt trận, mỗi nhà là một pháo đài…” 

Những câu hô hào như vậy cứ trút vào tai dân chúng bất chấp cái Uỷ ban kháng chiến ấy ở đâu ra, do ai bầu nên, cứ nghiễm nhiên là một tổ chức lãnh đạo  toàn dân kháng chiến chẳng cần hỏi ý kiến ai. Tuy thế, bất chấp điều đó người dân vẫn xông lên dũng mãnh diệt địch. Như cụ già Lộc, bố của nữ cán bộ Oanh đã nêu một gương sáng về lòng dũng cảm tới… đáng ngờ.

Lúc đó “cả khu phố nhà Thờ sáng rực như ban ngày. Nhà Thờ Lớn sừng sững như hai cái tháp cao ngất đen xạm giữa một hào quang đỏ. Hai chiếc xe tăng lồng lộn bò qua cái vườn hoa tròn trước mặt nhà thờ. Tượng đức Mẹ rung lên như trong đám rước. Mọi người lùi lại nhưng ông Lộc đã tiến gần cái xe trước, tay ném lựu đạn miệng hô xung phong. Cái điều mà ai nấy đều lo sợ  đã xảy ra. Cái xe sau nhả đạn. Hai tay ôm ngực, chân loạng choạng, ông vẫn gượng đứng và thét to: “Đuổi bắt cái xe tăng…”

Bị đạn xe tăng bắn vào ngực không tan xác thì chớ, cụ già này còn đứng được  và ra lệnh chiến đấu được  thì thật… khó tin. Vậy mà còn hơn thế nữa “ông Lộc ngã khuỵu xuống, nhưng vẫn bò đuổi theo, tay phải giơ khẩu súng lục nhằm cái xe sau bắn luôn mấy phát…”.  Tới mức này người ta đành phải hỏi ông tác giả tiểu thuyết, liệu có cụ già nào bị xe tăng bắn vào ngực còn đủ sức bò theo nó để bắn … súng lục chăng? Vậy mà “ông vẫn cứ lết đi, để lại đằng sau một vết máu dài”. Đến khi có người tới đỡ ông đứng lên, “cái áo sơ mi phờlanen của ông đỏ lòm máu từ ngực trở xuống”, vậy mà ông vẫn còn nói được:

“Mặc tôi, chạy đi. Không phải lo cho tôi. Nếu tôi chết thì cũng đã làm tròn nhiệm vụ của tôi đối với phố của chúng ta. Anh đi đi. Để tôi nằm ở đây. Anh có gặp con Oanh nhà tôi thì nói với nó là tôi đã đánh xe tăng như tôi đã hứa với nó. Anh cầm lấy cái súng này và bảo tôi cho nó. Tôi đã cho nó lúc chiều mà nó không nhận…”

Đây không phải lời lẽ và suy nghĩ của người sắp chết, lúc đó không biết ông già nghĩ gì, có điều chắc chắn không nghĩ về chuyện “đánh xe tăng” với “súng ống” gửi lại con gái như vậy. Và lạ thay, ông còn “lảo đảo đứng dậy, thân hình cao lớn của ông trông ngang tàng với cái ngực nở  và hai vai rộng, cánh tay phải giơ lên:

“ Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ chủ tịch…

Ông ngã xuống, một tảng gỗ cháy từ nóc nhà rơi xuống đè lên ông…”

Tội nghiệp ông già, lẽ ra ông đã chết toi mạng từ lúc xe tăng bắn nát ngực ông, vậy mà ông nhà văn Nguyễn Huy Tường còn bắt ông bò lê theo xe, bắn súng lục vào xe tăng, rồi trối trăng giao súng cho con gái và lại còn hô cả khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch…” nữa. Thật là một thứ văn chương tuyên truyền khó tin đến trắng trợn.

Trong cái bữa tiệc ngẫu hứng của 5 người Hà Nội do Tân tổ chức vào chiều hôm trước ngày toàn quốc kháng chiến có anh nhạc sĩ  Thu Phong. Trước  đây  anh này đã lưu lạc sang Tàu kéo đàn cho tiệm nhảy. Rồi khi thấy “ở nhà, Pháp khủng bố ở Bắc Ninh, rục rịch chiếm Hải Phòng”, chẳng hiểu sao anh lại “sốt ruột “ và tìm cách về nước. Chỗ này tác giả không nói rõ, Thu Phong đã được “giác ngộ cách mạng” chưa mà sốt ruột “tham gia cách mạng” quá vậy? Về nước rồi, anh chẳng bắt mối được với ông cách mạng nào, “Thu Phong ngao ngán, không biết rồi mình sẽ đi đến đâu.. Cuộc đời anh rồi sẽ thế nào ?”. Chưa được cách mạng “giác ngộ” ấy thế mà chẳng hiểu sao Thu Phong lại nhớ ngay đến lời của… Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Anh mang máng nhớ như đã có ai cho anh biết là Hồ Chủ tịch có nói: Nước ta là một nước nhược tiểu, phải đánh lâu dài…”.  Ghê chưa, với một tâm hồn nghệ sĩ như nhạc sĩ Thu Phong, chứng kiến cảnh bao gia đình tan nát, đầu rơi máu chảy khắp bốn xung quanh, chẳng thấy con tim người nghệ sĩ rung động mà lại chỉ thấy “Anh nắm cái bao súng lục và một quả lựu đạn Mỹ còn nguyên vẹn.Từ đây có lẽ không bao giờ anh còn được  đánh đàn nữa, mà chỉ còn dùng những thứ vũ khí này…”. Quả thực từ cây đàn tới lựu đạn, ở anh nhạc sĩ này là một “nhảy vọt” khiến người ta phải đặt câu hỏi: “có nhẽ đâu lại thế?”. Ông nhà văn đã ép uổng nhân vật mình chăng? Thế rồi thật ngẫu nhiên, ông nhạc sĩ gặp lại ông sinh viên luật Vũ Minh, người cùng dự bữa tiệc “cuối cùng của người Hà Nội” hôm đó. Thế là cả hai ông dắt díu nhau chạy vào “cái sân rộng của một cái nhà Tây. Chen chúc có hàng vài trăm người. Tiếng trẻ con khóc tru  tréo. Tiếng đàn bà dỗ con, gắt gỏng. Tiếng phụ nữ léo xéo gọi mẹ gọi anh. Tiếng đại bác nổ rầm, người ta ngã lỏng chỏng như một cái toa tàu bị giật mạnh…”

Lẽ ra hai ông bạn nhạc sĩ và luật sư phải giúp dân chạy loạn, ngược lại  “Thu Phong và Vũ Minh xéo bừa lên vai, lên đầu mọi người, mặc cho bà con chửi rủa. Họ trèo tường sang nhà bên cạnh.”. Những tưởng hai chiến sĩ tự vệ sẽ lập thành một ổ đề kháng chống giặc Pháp, ai ngờ “lại cái tiếng huỳnh huỵch. Đúng Tây rồi. Tóc gáy hai người dựng đứng  cả lên, mồ hôi toát ra đẫm cả sơ mi” khiến họ nghĩ tới chuyện …tự sát. Thu Phong long trọng:

“Đêm nay, đêm nổ súng đầu tiên, có hai thằng thanh niên chưa quen biết nhau bao giờ, mới gặp nhau trong một bữa tiệc mà cũng chẳng biết chủ là ai, hai thằng thanh niên ấy đã thề sống chết với thủ đô, nay nguyện cùng chết để khỏi sa vào tay giặc…”

Lạ chưa, mới nghe tiếng thằng Tây, tóc gáy chàng nhạc sĩ đã dựng cả lên mà lại dám chết để khỏi sa vào tay giặc? Và lại còn ngẫm nghĩ về ý nghĩa của cái chết “Anh không chết bên những gái truỵ lạc, mà bên một anh bạn sinh viên trong trắng. Từ giã cây đàn. Cái chết của hai anh tự vệ Hà Nội sẽ truyền mãi về muôn đời…” 

Dựng lên cái vụ tự tử của hai anh thanh niên trí thức Hà Nội có thể ông Nguyễn Huy Tưởng muốn cho cuốn truyện của mình phong phú hơn, đặc sắc hơn, nhưng sự vô lý của nó gây phản tác dụng, người đọc mất niềm tin vào sự trung thực của ngòi bút của ông, tác phẩm vì thế giảm hẳn giá trị.

Tất nhiên là Tây không tới và hai người sau đó lại nhận ra rằng: “Sao chúng mình lại chết. Cộng hai đứa mới được hơn bốn mươi tuổi hay hơn một tí chứ nhiều nhặn gì cho cam. Vô lý quá. Mà có gì đâu. Nếu Tây hay thổ phỉ thì nó phải làm ầm lên chứ, sao lại câm như hến thế này ? Vô lý…”. Và họ thôi không … tự tử nữa. Đọc tới đây người đọc phải đặt câu hỏi: đưa ra hai nhân vật nhạc sĩ và sinh viên luật, Nguyễn Huy Tưởng đã xác định tính cách của họ sao đây ? Có lúc dường như ca ngợi lòng dũng cảm; lại có lúc dường như riễu cợt sự nhát gan. Sự không rõ ràng trong tính cách như vậy khiến nhân vật mờ nhạt hẳn đi.

Người ta còn nhớ từ mãi đầu truyện có một chú bé tên Thắng cứ khăng khăng đòi mẹ cho đi theo bộ đội. Từ lúc đó, chú “oắt con” đã trở thành liên lạc, xông pha đi trước cả tiểu đội.

“Buổi chiều, Thắng đi liên lạc trở về, thấy tiểu đội nhộn nhịp một cách khác thường. Các anh đang chia nhau những quả lựu đạn tốt nhất và ngồi  nhìn nhau hát Tiến quân ca…”

Một sự khác thường nữa là sau khi anh tiểu đội trưởng cho Thắng cây súng gỗ thì kéo Thắng lại, “ôm lấy Thắng  và hôn lấy hôn để. Hôn xong anh quẳng Thắng cho anh  khác hôn và Thắng bị quẳng như thế khắp mười mấy lượt anh trong tiểu đội. Thắng chóng cả mặt mũi, cười sặc sụa giữa những tiếng cười trêu ghẹo của các anh…”

Chưa bao giờ các anh trong tiểu đội vui với Thắng như bây giờ. Rồi sau đó  “các anh đứng dậy, giơ tay hô quyết chiến rồi phân chia nhau đi bố trí.”  Hoá ra họ biết trước đã đến giờ G., giờ nổ súng vào quân Pháp. Quả nhiên “một lúc thì điện tắt  và súng nổ đùng đùng. Thắng sợ quá, đái tung toé ra cả ngoài quần, khóc gọi anh Dân…”

 

 

Người ta thật không thể hiểu nổi sao giữa nơi mũi tên hòn đạn ấy, “tác giả” không trả Thắng – đứa bé lên 8 tuổi ấy về cho mẹ nó mà cứ khăng khăng đưa nó đi theo tiểu đội chiến đấu, bắt nó xông pha giữa mũi tên hòn đạn chẳng khác gì một chiến binh già giặn: “Chợt có tiếng ríu rít trên đầu. Một viên đạn đỏ lạc vào như con đom đóm lừ lừ…”.  Lẽ ra thằng bé con phải “sợ quá, đái cả ra quần, khóc gọi anh Dân” như lúc tắt đèn vừa mới đây thôi, vậy mà không, chỉ mới qua chốc lát, thằng bé bỗng đổi khác, trở nên dũng cảm khó ngờ. “Thắng nghĩ : “Sao nó biết mình về đây mà nó bắn ? ”. Thắng kêu: “Chạy đi, các anh ơi, lộ rồi !”. Thắng nằm sấp xuống , nhưng viên đạn đã vập vào tường…”. Lạ thay, viên đạn đã cắm vập vào tường rồi không hiểu sao nó lại vẫn “xoay rít, vờn trên người Thắng… Viên đạn xì xì, Thắng chạy tới đâu viên đạn đuổi tới đó…”. Sao lại có viên đạn nào “thông minh” đến thế? Anh tự vệ giải thích:

“Đạn lửa đây mà. Nó đang đà, gặp sức cản, nó đứng lại, nhưng nó còn thuốc, nên nó quay như pháo. Có gì đâu ?”

Lạ thật, đạn gặp sức cản mà lại đứng lại rồi … quay như pháo,  chắc là đạn…ma, chỉ có trong tưởng tượng của nhà văn. Thế  rồi thằng bé con cầm súng lục gỗ, lưng đeo hai quả lựu đạn thật, khi một anh chàng định bỏ trốn khỏi tiểu đội, nó khăng khăng không cho đi. Anh chàng kia “đút lót” gói kẹo, “Thắng đứng thẳng người, ưỡn ngực, mặt vểnh lên như muốn sinh sự, cái trống bỏi cầm tay kêu tong tong: Anh vào ngay. Không tôi gọi các anh ấy đấy. Thắng khum ngón tay cái và ngón tay trỏ như cái càng cua, đưa lên miệng, huýt một tiếng còi dài, ra ý như báo hiệu…”

Thế rồi một anh vệ quốc đoàn đọc lời hiệu triệu của ông Hồ Chí Minh trong một “thứ ánh sáng tôi tối của mùa đông, trong một gian phòng đóng cửa … Họ đứng lấp kín cả bàn và bộ ghế bành. Bộ đội đều lặc lè lựu đạn, súng không nhiều, có người không có. Anh nào cũng quàng trên áo trấn thủ đường may hình quả trám những ruột tượng gạo như những con rắn trắng cuộn khúc. Họ đứng thế nghiêm, nhìn thẳng, chăm chú nghe lời kêu gọi…”.

Và rồi chẳng hiểu sao giữa tiểu đội lại xuất hiện cả bà mẹ, con gái, cụ già, thanh niên để tạo nên một thứ “quần chúng” đầy đủ thành phần nam phụ lão ấu, nín thở nghe đọc lời kêu gọi của lãnh tụ:

“Giờ cứu nước đã đến! Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng cương quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về ta…”

Không ai, không một ai nghĩ tới chuyện nếu phải “hy sinh tới giọt máu cuối cùng” thì cái thắng lợi giành được đó còn có ý nghĩa gì, mang lại cho ai và để làm gì? Tất cả còn đang thành kính lắng nghe anh vệ quốc đoàn cao giọng:

“Kháng chiến thắng lợi muôn năm! Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Hồ Chí Minh…”.

“ Giọng anh khẽ xuống. Nhưng tên lãnh tụ âm vang lên. Mắt anh đưa đi đưa lại trên những dòng chữ cuối cùng như tìm kiếm một vật gì. Gian phòng im một cách lạ…”

Cái giỏi của nhà văn trong việc “nâng bi” lãnh tụ là sau khi nghe đọc xong lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh, đám quần chúng không sôi sùng sục máu căm thù xông lên diệt giặc, không lớn tiếng hô khẩu hiệu mà chỉ để một bà mẹ đặt câu hỏi:

“Kháng chiến thật rồi ư, thưa đồng chí ?”

Cái tài “nâng bi” của nhà văn bộc lộ ở chỗ này đây, sau khi nghe xong lời “Bác kêu gọi”, một bà mẹ bình thường bỗng thấy tin yêu bác Hồ, tin yêu cách mạng đến độ muốn đứng hẳn vào hàng ngũ cách mạng, trở thành một “đồng chí” trong đó. Phản ứng của “quần chúng” thì như vậy, còn các lực lượng vũ trang tất nhiên phải nhiệt thành hơn:

“Tiếng thét của anh tiểu đội trưởng bé nhỏ lút trong đám chiến sĩ:

“Tiêu diệt thực dân Pháp! Hồ Chủ tịch muôn năm…”

Một anh thanh niên đeo cravat đỏ “bỗng nhảy lên hô, thúc mọi người hô, quả đấm của anh giơ cao như đe mọi người; mặt đen nhuốm đỏ như say rượu, mắt điên dại. Anh reo:

“ Kháng chiến rồi. Toàn quốc kháng chiến rồi. Tôi biết. Tôi biết từ lúc nổ súng kia. Sướng quá! Hồ Chủ tịch đã ra lệnh. Hôm nay tất cả Nam Bộ sẽ ăn mừng. Nam Bộ không phải chiến đấu một mình nữa…”

Chiến tranh là chết chóc, nhà sập, gia đình ly tán, thật hiếm có dân tộc nào lại ăn mừng khi nó nổ ra. Hiếm có ai lại “sướng quá” khi súng đã nổ. Anh ta là ai vậy? Hoá ra ông nhà văn muốn cho đám quần chúng nhân dân lắng nghe lời Bác kêu gọi sao có đủ ba miền Bắc Trung Nam đã bất ngờ cho một ông người miền Nam bỗng dưng xuất hiện cứ như đứt giây trên trời rơi xuống:

“Anh thanh niên cướp lời :

“Đúng, Nam Bộ đây. Tôi ra đây có công tác, vừa mới đến Hà Nội hôm qua. Chưa được gặp Chính phủ, chưa được gặp Hồ Chủ tịch. Nhưng được nghe lời hiệu triệu này thì cũng đã đời rồi. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm… Đúng như ở Nam Bộ. Trời! Gặp kháng chiến ngay giữa thủ đô !”

Rồi ông nhà văn cho anh thanh niên bày tỏ lòng yêu nước theo phong cách “Nam Bộ”:

“Tôi sẽ sống chết ở đây cùng với đồng bào miền Bắc. Tôi đã trông thấy những khẩu hiệu ở đây rồi. Đã lắm! Cho nhập bọn được không? Không cũng được. Đơn thương độc mã cũng đánh…”

Anh lại bắt tay mọi người. Anh ôm hôn người mẹ. Anh vẫy vẫy tờ hiệu triệu. Anh lại ấp nó vào ngực, toàn thân anh rung rung. Anh khóc rưng rức, mắt đỏ hoe:

“Đi lấy đầu mấy thằng Tây nhá. Trời! Trời, sao Hà Nội nhiều súng thế này ?”

Anh đến với chiến sĩ này lại đến với chiến sĩ  nọ, rối rít, sốt sắng…”

Thật đúng là một tính cách anh Hai, yêu nước theo kiểu nóng sốt, bộc trực của người miền Nam theo cách…tưởng tượng của tác giả. Màn hướng ứng lời “hiệu triệu của bác Hồ” từ lúc này mới nổ ra rầm rộ. Tiểu đội trưởng tự vệ phát biểu:

“Bây giờ thì tôi đề nghị thế này. Như Hồ Chủ tịch kêu gọi thì toàn dân, toàn quốc đều phải đứng lên kháng chiến. Tất cả chúng ta ở đây đều có nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô đến cùng. Chúng ta phải giữ cái phố này…”

Một ông già mặc quốc phục nói với bà con:

“Các đồng chí về đây, chúng tôi rất mừng. Chúng tôi như người được sống lại. Trông thấy các đồng chí như được trông thấy Chính phủ, thấy Cụ Hồ…”

Tuy nhiên, không phải ai cũng thích được  gọi là đồng chí; Tân, anh chàng thanh niên Hà Nội tham sống sợ chết, đã mở bữa tiệc ngẫu hứng 5 người hôm trước, khi được  đồng chí cán bộ  tên Dân hỏi:

“ Xin lỗi đồng chí nhé. Thế nào đồng chí? Đồng chí sẽ kháng chiến ngay tại nhà mình. Không ngại gì cả …”

…Tân choáng váng hơn là khi nghe tiếng cây đổ ngoài đường. Tai anh trối vì hai cái tiếng mà anh vẫn chế giễu  và bây giờ người ta đem ra gọi anh. Cái tiếng ấy sẽ cột cổ anh lại. Anh nói :

“Thưa ông, có lẽ ông nhầm. Tôi, đồng chí ?”

…Dân tới trước mặt Tân, vững như một lực sĩ, khói miệng bay ra như thở khói thuốc lá:

“Tôi chỉ muốn được gọi rất nhiều người là đồng chí. Có lẽ khi mọi người đều gọi nhau như thế thì đời đã sướng lắm…”

Quả thực, cả ông nhà văn Nguyễn Huy Tưởng lẫn nhân vật Dân đều không tưởng tượng được rằng 50 năm sau, số người gọi nhau bằng “đồng chí” ngày càng ít đi và thường chỉ trong những cuộc họp nội bộ Đảng lôi nhau ra sát phạt, người ta mới lớn tiếng gọi nhau bằng hai tiếng “đồng chí”.

Trong đám nhân vật của Nguyễn Huy Tưởng, người thích được  gọi là “đồng chí” nhất có lẽ là cô nữ sinh Quyên, người được giao theo dõi ông bác sĩ Việt kiều mới về nước. Chỉ mới nghe tin “một người về báo xe tăng đã húc đổ hàng rào sắt của dinh Chủ tịch, Quyên đã cãi lại anh ta và đuối lý, Quyên khóc. Quyên ghét cái người ấy và coi như Việt gian…”. Yêu Hồ Chủ tịch ghê gớm chưa? Ai mà báo tin Phủ Chủ tịch bị xe Pháp ủi sập hàng rào lập tức kẻ đó là… địch. Tuy nhiên, khả năng xuất sắc của cô nữ sinh Hà Nôi này lại là dò xét, theo dõi người khác. Được giao nhiệm vụ “bám sát” ông bác sĩ Việt kiều, lúc tắt điện ông ta kêu: “Thế này mà mình không biết mua sẵn một cái đèn dầu”. Chỉ thế thôi, vậy mà cô báo cáo với tổ chức là “ông ấy oán Chính phủ mình…”. Rồi khi ông bác sĩ giục: “Une lampe, une lampe, mademoiselle…”, cô ta tức lắm bởi lẽ “đánh nhau rồi mà vẫn nói tiếng Pháp, có vẻ như…muốn báo hiệu cho nó…”. Tinh thần cảnh giác của cô nữ sinh cán bộ này rõ ghê gớm chưa?

 

Thật khó hiểu vì sao Nguyễn Huy Tưởng mô tả nữ sinh Hà Nội lại cứ biến họ thành toàn những cô gái “cứng cỏi” đến “sắt đá” như cái cô Quyên chuyên theo dõi ông bác sĩ Việt kiều, như chị  Oanh, cán bộ phụ nữ thành.

Chị Oanh là vợ sắp cưới của con trai nhà buôn Cự Lâm giàu có, là con gái của một ông già cứ khăng khăng đòi “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Trong những ngày ly loạn, các gia đình nháo nhào chạy tản cư, chị ta chẳng ngó ngàng gì tới chồng cũng như gia đình chồng chưa cưới, cũng chẳng lo toan gì cho  bố đẻ mặc kệ  ông chạy khắp Hà Nội để đòi… giết giặc.

Ông bố chị ta chính là ông già Lộc, người đã đuổi theo xe tăng  “tay ném lựu đạn miệng hô xung phong. Cái xe sau nhả đạn. Hai tay ôm ngực, chân loạng choạng, ông vẫn gượng đứng và thét to: “Đuổi bắt cái xe tăng…”. Khi hấp hối, ông vẫn còn nói “Anh có gặp con Oanh nhà tôi thì nói với nó là tôi đã đánh xe tăng như tôi đã hứa với  nó. Anh cầm lấy cái súng này và bảo tôi cho nó. Tôi đã cho nó lúc chiều mà nó không nhận…”.

Khi khẩu súng của ông bố được đưa tới tận tay, lẽ ra Oanh phải rú lên mà hỏi bố chết rồi ư, vậy mà không, chị ta vẫn tỉnh bơ:

“Sao thế? Chiều hôm qua tôi đã không nhận kia mà… Anh có thể đem về cho cậu tôi được không. Tôi cũng có rồi…”

Khi người báo tin cho biết: “Cụ mất rồi. Mất trong một trận đánh xe tăng …”,  chị ta mới có phản ứng: “đôi lông mày kẻ của Oanh ríu lại. Trông ngực chị đập mạnh” – chỉ thế thôi, không thấy “la hoảng “ gì thêm. Người báo tin lại nhắc “Cụ mất rồi. Cụ xông ra đánh xe tăng và bị trúng đạn vào ngực. Trước khi mất, cụ đã hô “Việt Nam độc lập muôn năm”. Cụ nhờ tôi giao lại chị vật kỷ niệm”.  Vậy rõ ràng là bố đã chết, chị cán bộ Oanh cũng chỉ: “mím chặt môi, cái cằm hơi lẹm của chị như ngắn lại. Chị cầm lấy khẩu súng, tai văng vẳng lời của bố buổi chiều qua: cầm lấy súng Oanh. Chị ngắm khẩu súng có khắc tên Phùng Gia Lộc…”

Thế rồi chắc đau thương làm chị đánh rơi khẩu súng, người khác nhặt lên, chị cũng chỉ nói: “Cám ơn Quyên”. Mặt chị trở lại tự nhiên, Oanh hỏi Thu Phong (người đưa tin): “Thưa anh, xác cậu tôi bây giờ ở đâu ?”. Người nhạc sĩ nói dối: “Chúng tôi đã chôn cất cho cụ rồi…” − Cám ơn các anh…”. Chỉ thế thôi, không hỏi bố chết thế nào, được chôn ở đâu, đánh dấu ra làm sao mà lại hỏi: “Phố ta vẫn giữ được chứ ?” Rồi quay sang mấy cô bạn: “Ta đi, các chị đi”. “Tay Oanh nắm chặt cái nòng súng chìa ra ngoài miệng túi. Đoàn người lặng lẽ tản đi…”

Thực ra ông Nguyễn Huy Tưởng muốn tả cái sự nén đau thương để biến nó thành hành động. Tiếc rằng ông đã bắt Oanh “nén chặt” nỗi đau quá khiến chị ta trở thành người con gái vô tình, sắt đá, dửng dưng cả với cái chết của bố để “toàn tâm toàn ý” tập trung suy nghĩ và hành động vào việc đánh Pháp.

Tiêu biểu cho tinh thần toàn tâm đánh giặc phải nói tới đơn vị bảo vệ dinh cụ Hồ:

“Phần lớn họ là những đồng chí người Thổ, nhiều người đã tham gia cách mạng từ hồi bí mật, đã xa rừng núi từ ngày khởi nghĩa. Hơn một năm ở Hà Nội, họ chỉ quanh quẩn hoặc ở trong dinh hoặc ở bên phủ. Những người ít nói ít cười và không đòi hỏi. Hơn một chục đồng chí đã nằm xuống để không bao giờ trông thấy xứ sở xanh xanh nữa.” 

Những người lính gốc dân  thiểu số khi chiến đấu cũng như lúc hy sinh ắt phải khác những người lính gốc Kinh, tiếc thay ông nhà văn không diễn tả được sự khác biệt đó. Một anh thương binh người dân tộc lúc hấp hối được cấp chỉ huy hỏi han:

“Đồng chí thế nào?”. Anh thương binh nói, giọng nói của một người còn tỉnh, nhưng đã yếu: “Báo cáo anh, cũng thường thôi. Ngoài ấy thế nào ?” −“ Nó chuẩn bị tấn công. Tôi sẽ cho người đưa đồng chí về trong phố, có quân y.” Cái đầu lắc lắc một cách nhọc mệt, đôi mắt như cười: “Không nên. Làm gì còn người. Tôi ở đây. Đem về cũng vô ích. Tôi biết.” Anh ta nghĩ một lúc: “Tôi được đánh suốt từ chập tối đến giờ, chết cũng sướng.…”

Chưa nói tới lúc sắp chết làm sao “đôi mắt như cười” được, chưa nói tới khi chết người miền núi thường nhớ về quê hương, bố mẹ, vợ con chứ đâu có còn nghĩ tới … tình hình chiến sự, chỉ riêng một điều tiếng Kinh chưa sõi, sao mà lúc hấp hối, anh lính Thổ này nói được lưu loát quá vậy?

Một anh lính dân tộc khác khi bị thương “thấy mình không sống được nữa đã cố gượng bò lên đây để nhìn lại lần cuối cùng cái phòng khách mà Bác Hồ thường hay đi qua…”

Có thật là khi sắp về với tổ tiên, người lính Tày này đã thu hết sức tàn lực tận chỉ để nhìn cái nơi “bác Hồ thường qua lại” không?

Một anh lính khác lúc sắp chết “cũng nói giọng yếu  dần:

“Tôi đã đi lính cho Pháp 3 năm. Bây giờ mới biết thế nào là vui. Hồi đảo chính, tôi ở trong thành, Pháp nó chạy như chuột. Đêm ấy buồn quá. Theo nó thì không muốn, trở về thì đồng bào hỏi tội, hàng Nhật thì nhục nữa. Chẳng biết làm gì, chẳng biết đi đâu, tôi cứ ngồi nhắm cái cột đèn trước mặt mà bắn. Lúc ấy sống mà như chết. Bây giờ sướng là được  bắn thực dân, không phải bắn cột đèn.Tôi không chắc đã sống được để chiến đấu nữa. Tôi biết. Anh không phải nghĩ ngợi gì về tôi cả. Tôi không ngờ lại được nằm ở dinh Hồ Chú tịch…”

Dù có là thực hay là bịa, nhưng mô tả 3 cái chết của 3 người lính dân tộc mà giống nhau y hệt, ông nào cũng nghĩ tới bác Hồ, cũng nghĩ tới niềm vinh dự được hy sinh cho cách mạng thì đủ thấy khả năng tưởng tượng của ông nhà văn  Nguyễn Huy Tưởng nghèo nàn tới mức nào!

Thế rồi tới anh chính trị viên đơn vị là Gia Bảo, tuy là người kinh nhưng lúc sắp quyết tử cũng lại được mô tả “nhớ tới bác Hồ” y như  mấy anh chiến sĩ người Thượng:

“Gia Định cũng đưa mắt quanh cái phòng dài đổ nát, nhưng vẫn như phảng phất sự có mặt của Hồ Chủ tịch mới hôm qua còn đến đây làm việc (thực ra cụ đã lên an toàn khu từ tám đời nào  rồi – NT) … Anh nhớ những tiếng ho của ông Cụ, nhớ những ngày Tàu trắng và bọn Quốc dân đảng làm găng, ông Cụ làm việc không nghỉ, nhưng ăn cơm xong vẫn đi gặp bộ đội nói chuyện… Anh sẽ không rời khỏi nơi này. Trước khi chết anh sẽ không để cho cái dinh này lọt vào tay giặc. Những lời căn dặn của đồng chí Bí thư, đồng chí Khu phó trong buổi Hội nghị hôm qua văng vẳng đưa lại…”

Như vậy đã thành một công thức trong “nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết” của Nguyễn Huy Tưởng: mọi chiến sĩ, dù là Kinh hay Thượng, dù là dân thường hay bộ đội, trước khi chết đều nhớ tới bác Hồ và Đảng. Sự thực ra sao chắc chỉ những “người trong cuộc” mới biết, chỉ tiếc họ đã ra người thiên cổ nên chẳng ai kiểm chứng được huyền thoại về những cái chết trong nỗi niềm thương nhớ Bác Đảng mà ông nhà văn đã tô vẽ.

Một điều khá đặc biệt nữa là hầu hết những người lính của Nguyễn Huy Tưởng đều có “dính dáng” tới cụ Hồ.

Thí dụ như Bảo, người lính cuối cùng trong trận chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ phủ “là một thợ tiện tập sự của Sở máy nước đá. Ngày cách mạng, Bảo xin đi biểu tình, bố mẹ cấm vì Bảo còn nhỏ. Bảo trốn đi, theo anh em vào cướp dinh và được phát hai quả lựu đạn Nhật, một con dao găm. Một hôm có tin là cụ Hồ ở chiến khu về. Bảo hỏi một người đội viên Thổ: “Hồ Chủ tịch là gì ?”  “Anh Thổ nói: “là đứng đầu nước, giữ độc lập cho dân…”. Buổi chiều, một ông già áo kaki, dép con hổ, đi với nhiều người vào. Thấy nhiều người hô muôn năm, Bảo cũng hô. Bảo đoán đấy là Hồ Chủ tịch vì anh em đã cho xem ảnh trước…Từ đấy, Bảo yên tâm ở bộ đội…”

Vậy đó, hình ảnh của cụ Hồ chẳng những ăn sâu trong tâm hồn những người lính của Nguyễn Huy Tưởng mà còn tràn lan trong những trang viết về các trận đánh  của những người “Sống mãi với Thủ đô”.

 

 

Hầu như  tất cả các trận đánh giữa ta và Pháp ở Hà Nội đều được tác giả  Sống mãi với thủ đô” thuật lại. Nhà máy đèn, Bưu điện, Bắc bộ Phủ, Chủ tịch phủ, chợ Đồng Xuân, Nhà thờ lớn… nơi nào cũng có một tính chất chung, hết sức phổ biến là tinh thần của quân dân ta cực kỳ anh dũng, quân địch thì cực kỳ độc ác và hèn nhát. Tính đơn điệu và một chiều trong những nhân vật tự vệ thủ đô như Trần Văn, Thu Phong, Tân, Bảo, ông già Phùng Gia Lộc… những anh bộ đội người Thượng, những cô nữ sinh Hà Nội như Oanh, Quyên, những người cộng sản như Quốc Vinh, Bí thư… là ở chỗ cho dù họ mang những danh xưng khác nhau, tên tuổi khác nhau, cho dù là nghệ sĩ, trí thức, tư sản, công nhân… nhưng họ giống nhau y hệt như những hạt đậu trong hũ. Cái mẫu số chung đã được quy đồng cho mọi nhân vật đó là sự bỏ quên cá nhân, quên gia đình, quên mọi thứ trên đời để toàn tâm toàn ý tập trung vào đánh giặc và trong lòng người nào cũng có một vị thánh sống là … “bác Hồ”.

Tuy thế, trong cái bức tranh rực một mầu hồng đó, đôi khi cũng lộ hé cái bệnh “độc đoán”, “độc quyền lãnh đạo” của những người cộng sản, đủ để cho ta thấy song song với việc đánh Pháp, Đảng cộng sản đã ráo riết thâu tóm quyền hành để thiết lập chế độ độc Đảng ngay từ khi còn trứng nước như thế nào.

Nguyên ông Uỷ viên quân sự Văn Việt là người ngoài Đảng, chức quan trọng vậy nhưng không được họp nội bộ Đảng, không được biết những tin tức quan trọng, bởi vậy ông Uỷ viên quân sự này vẫn ấm ức về trò lén lén lút lút qua mặt ông của các đồng chí đảng viên. Khi nổ ra cuộc chiến đấu chống Pháp, ông Uỷ viên Văn Việt đưa lực lượng tự vệ tới đánh chiếm nhà Xôva của hãng tàu thuỷ Pháp. Khí thế hăng hái lắm. “Trong đêm tối, bộ đội và tự vệ vây lấy cái hãng, bắn súng và ném lựu đạn. Giặc không dám bắn ra. Đánh mãi, đánh mãi, đến nửa tiếng đồng hồ. Ta trèo vào trong sân, tiến tới sát cửa, đập cửa ầm ầm. Người ta xông vào trong nhà, hô chiến thắng vang lừng. Người  ở dưới nhà chạy lên gác, người trên gác chạy xuống dưới nhà, vào buồng này, sang buồng kia, gọi nhau í ới, ồn ào như vỡ chợ. Xục mãi không tìm được một tên giặc, không thu được một viên đạn….”

Sao lạ thế? Quân Pháp đâu hết cả rồi?

Thì ra họ đã rút từ tám đời, chi bộ Đảng biết điều đó nhưng lại không thông báo cho Văn Việt, vì anh ta là người ngoài Đảng. Bởi vậy khi có người hỏi: “Nó rút từ lúc nào ?” Văn Việt buông cả hai tay, cay đắng: “Mình là quần chúng, ai cho biết mà chủ động…”

Vậy đó, dù có là Uỷ viên quân sự đi nữa, nhưng không phải đảng viên thì cũng không được biết những “tin tức nội bộ”. Thực ra ông Uỷ viên muốn “đánh một trận ra trò, tiêu diệt hoàn toàn vị trí Xôva, để cho các ông đoàn thể – tức là Đảng, biết rằng dù bị thành kiến, một thằng quần chúng khi nhận nhiệm vụ, vẫn làm đâu vào đấy, vẫn cừ. Khi biết là đã đánh vào một vị trí không người, anh choáng đi, như bị sét đánh. Anh càng giận Quốc Vinh (cán bộ Đảng đã dấu không cho biết chuyện Pháp đã rút khỏi nhà Xôva). Giặc không tiêu diệt được, đoàn thể thành kiến, mất uy tín, không lập được công trong đêm đầu. Anh khóc vì tức vì xấu hổ…” . 

Thế rồi không chịu nổi đồng chí cấp uỷ Đảng chơi xỏ mình, ông Uỷ viên quân sự tìm tới tận trụ sở, xông lên phòng ông chính trị viên, “mặt tối sầm, giọng xẵng, lưỡi như rít lại:

“Sao anh không cho tôi biết trước? Anh coi tôi là người thế nào mà phải giấu tôi ? Tôi là Uỷ viên quân sự để làm vì à ?”

Đồng chí cấp uỷ “đối với quần chúng bao giờ cũng giữ được cái lễ độ và mềm mỏng cần thiết:

“Cứ bình tĩnh, anh ạ. Tôi nghĩ rằng việc thì có cái nói trước, có cái nói sau, người thì có người nói trước, có người nói sau…”

Ông Uỷ viên quân sự ngoài Đảng tức giận:

“Thế nghĩa là chúng tôi là những người làm thì làm trước, biết thì biết sau chứ gì ? Anh giữ bí mật thế à ?”

Không kìm nổi tức giận, ông Uỷ viên quân sự ngoài Đảng “giáng một cái tát vào một má hóp”  của ông cán bộ Đảng. Nếu  là người bình thường thì ông bị ăn tát này đã nhảy xổ ra trả đũa rồi, nhưng ông cán bộ Đảng vốn cáo già về chính trị, ông chỉ “cau trán, loáng một ánh sáng nơi đuôi mắt”  rồi trở lại bình thường ngay:

“Bây giờ anh đang nóng. Để một dịp khác ta sẽ nói với nhau về chuyện này. Còn chuyện gì khác nữa không, anh Văn Việt ?”

Ông cán bộ Đảng mềm mỏng nhưng mà dứt khoát, ông chỉ gọi ông Uỷ viên là “anh” thôi chứ không gọi “đồng chí”. Vậy là ông  ngầm tỏ ý sẽ không tha cho “cái tát hỗn xược” ấy đâu, nhất định sẽ có ngày ông trả mối nhục này, nhất định sẽ có dịp cho ông “nói lại chuyện này”. Lúc đó ông sẽ phân tích trong cuộc họp nội bộ Đảng rằng quần chúng mà dám giang tay tát cả Đảng thì còn gì là uy tín đoàn thể nữa, đây không  chỉ xúc phạm cá nhân mà xúc phạm cả tổ chức. Cánh cửa vào Đảng giành cho ông Uỷ viên quân sự như thế là vĩnh viễn đóng lại. Không phải đảng viên thì ông Uỷ viên quân sự cũng hết hy vọng thăng tiến theo con đường quan lộ, mai mốt leo được cái chức đại đội trưởng cũng là kịch trần rồi.

Mấy trang cuối cùng của cuốn “Sống mãi với thủ đô”, Nguyễn Huy Tưởng giành cho “chú bé Gavơrốt Việt Nam”, bé Thắng. Chú bé này mới 8 tuổi đã khăng khăng đòi mẹ theo các anh bộ đội đi đánh tây. Sau một trận đánh, lúc rút kinh nghiệm, bé Thắng cũng đòi … phê bình thủ trưởng:

“Thắng đứng dậy, hai tay buông thẳng cứng cỏi như một chiến sĩ. Thắng nhìn thẳng vào Dân – chỉ huy, vênh mặt lên:

“Báo cáo đồng chí. Đồng chí có một khuyết điểm. Sao đang chiến đấu, đồng chí lại đẩy tôi xuống hố…”

Thắng cau trán lườm mọi người, nét mặt nghiêm nghị, mắt quắc lên nhìn Dân bĩu môi. Một chị đẩy chén chè tới trước mặt chú bé. Thắng gạt đi giận dữ. Dân nói:

“Tôi thấy đồng chí bò, tôi sợ nó bắn đồng chí nên phải đẩy đồng chí xuống hố. Nhưng đồng chí phê bình thì tôi chịu…”

Quả thực khó mà tin được một chú bé đang tuổi nhi đồng mà lại hăng hái, coi thường cái chết một cách hỗn xược như vậy. Tính chất “giả” , bịa đặt theo yêu cầu tuyên truyền cứ bàng bạc trong suốt cuốn tiểu thuyết cho tới tận dòng cuối cùng của cuốn sách.

Năm 1961 “Sống mãi với thủ đô” ra mắt bạn đọc, lập tức nó được các nhà văn hàng đầu của văn học cách mạng như Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải, Tô Hoài … “bốc” lên mây xanh, dẫu rằng nó được viết theo cảm hứng chủ đạo là ca ngợi một chiều và vì thế  nó mang nặng giá trị tuyên truyền hơn là giá trị nghệ thuật.

Tổng kết về Nguyễn Huy Tưởng, nhà phê bình Phan Cự Đệ đã viết  trong cuốn “Nhà văn Việt Nam 1945-1975”:

“Nội dung tinh thần dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng càng ngày càng sâu sắc trên cơ sở lập trường giai cấp được củng cố vững chắc hơn. Anh đã thấy được nội dung của hạt nhân dân tộc là lực lượng đông đảo quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng…”

Sáng tác bám sát đường lối của Đảng vậy trách gì Nguyễn Huy Tưởng “Sống mãi trong lòng Hội nhà văn”, chứ chẳng phải trong lòng độc giả.

NHẬT TUẤN

Nguồn:

Trí khôn các bác để đâu? tiểu luận văn học của Nhật Tuấn

(bản do Lại Nguyên Ân biên tập, được tác giả cho toàn quyền công bố)

 

Một bài báo của PHAN KHÔI năm 1956: PHÊ BÌNH LÃNH ĐẠO VĂN NGHỆ

 

Ngày 14 tháng 7 trước đây, một anh bạn trẻ đến với tôi, ngỏ ý muốn tôi viết một bài cho tập Giai phẩm mùa Thu, tôi nhận lời, và viết cái bài nầy.

Tôi không phải không nhớ nhập tâm rằng cái Giai phẩm mùa Xuân đã gây ra một cảm giác nặng nề cho giới văn nghệ, nhưng mà tôi cứ viết. Là vì tôi nghĩ thấy mùa thu không thể giống được với mùa xuân. Thầy Mạnh Tử nói rằng “Bĩ nhất thời dã, thử nhất thời dã”. “Thời” là mùa thu, mùa nào tiết khí ấy, mà cũng mùa nào thức ấy.

Huống chi anh bạn trẻ có cho tôi biết rằng Giai phẩm mùa Thu sắp in ra là để góp một phần nhiệm vụ chuẩn bị và xây dựng cho Đại hội Văn nghệ Toàn quốc tháng 11 sẽ tới, tôi cũng muốn đóng góp chút ít cái nghĩa vụ ấy, thì đó là dịp tốt cho tôi viết.

Lại huống chi cái tôi viết đây là bằng văn xuôi, có chi nói nấy, nói toàn những sự thực, tôi không làm thơ, trong đó không có cái gì nhiêu khê, bí hiểm, như “cái bình vôi” của Lê Đạt, “con chó đói” của Trần Dần, “cái chổi quét rác rưởi” của Phùng Quán, nó như ruột voi, như phổi bò, suôn đuồn đuột mà xốp xồm xộp, ai đọc cũng thấy ngay tôi nói gì, khỏi phải hiểu ý nầy ra ý khác thì tôi tưởng tôi nên viết lắm.

Tôi muốn nói sự thực. Nhưng có người bảo rằng “có những cái sự thực không nên nói”. Tôi không tin. Đó là ở dưới chế độ nào kia, chứ ở dưới chế độ của chúng ta, đã lấy phê bình, tự phê bình làm võ khí, thì còn có cái sự thực nào là cái sự thực không nên nói?

Tôi muốn phê bình. Nhưng có người lại bảo rằng “phê bình nội bộ thì được, không nên viết trên sách báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc ra”. Tôi cũng không tin. Cái thời kỳ “đóng cửa dạy nhau” đã qua rồi, ngày nay chính là ngày có mâu thuẫn gì giữa nội bộ cần phải giải quyết trước mặt quần chúng nhân dân, không nhờ ánh sáng của quần chúng nhân dân soi dẫn cho, thì không thể giải quyết nổi. Vả lại, đã nhận rằng ăn của nhân dân, làm việc cho nhân dân, nhân dân là chủ, có quyền kiểm tra mọi việc, thì sao lại cứ giấu im ỉm với nhau, không cho nhân dân biết?

Còn như sợ “bên địch xuyên tạc” thì chỉ là cái cớ mượn để mà giấu im ỉm. Bên địch hà tất đợi đến có cái gì mới xuyên tạc? Chó sủa hà tất phải có bóng người đi qua. Đã là bên địch thì nó cứ dựng đứng chuyện lên, tôi thử kể ra đây một mẩu. Tháng tư năm ngoái, tôi đi vào khu V, nghe đồng bào thuật lại rằng trước đó độ một năm, lúc thủ tướng Phạm Văn Đồng đi dự hội nghị Giơ-ne-vơ, đài phát thanh Sài Gòn nói rằng “đó là tại Hoàng Minh Giám, bộ trưởng ngoại giao, đã bị thủ tiêu rồi nên Phạm Văn Đồng lên thay”. Thật, ông nào nói “bên địch xuyên tạc” cũng nên khen ông ấy là quân tử hơn bên địch lắm lắm vậy.

Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập lên đã 12 năm rồi, vững như trồng rồi, được cả nhân dân toàn quốc tín nhiệm rồi, tha hồ cho đứa nào vu cáo, đặt điều nói xấu, cũng còn không sợ thay, nữa là thứ đồ xuyên tạc.

Bây giờ chúng ta làm gì? Đành rằng chế độ của chúng ta là tốt, nhưng chúng ta đây là ai? Chúng ta đây là những người từng sống dưới chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc hoặc nhiều hoặc ít, những tư tưởng xấu xa tiêm nhiễm của chế độ xấu xa ấy còn rớt lại trong đầu óc chúng ta hoặc ít hoặc nhiều. Do đó sinh ra những hiện tượng xấu xa mà chúng ta chỉ có bịt mắt lại mới không thấy. Bây giờ chúng ta phải bạo gan nhìn thẳng vào những cái hiện tượng đen tối ấy, vạch trắng nó ra, yêu cầu nhau sửa chữa. Sửa chữa đến tận gốc là tư tưởng. Có như thế, chế độ của chúng ta mới tốt đẹp thêm, bền vững thêm, chúng ta mới xứng đáng là người mác-xít, là người cộng sản chủ nghĩa, là công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chúng ta muốn “củng cố miền Bắc” à? Tôi tưởng đó là một việc trọng yếu trong chương trình phát triển văn hóa cũng như phát triển kinh tế để củng cố miền Bắc.

Bởi những lẽ đó, tôi viết bài nầy phê bình lãnh đạo văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam, cái cơ quan mà tôi sống trong đó tám chín năm nay từ khi nó mới bắt đầu thành lập ở Việt Bắc tới giờ, và phê bình rất thẳng thắn.

Hồi còn ở Việt Bắc, đường lối văn nghệ có vẻ giản đơn lắm. Tóm lại là theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa hiện thực xã hội để phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, nhất là phục vụ cho cuộc kháng chiến trước mắt. Những người công tác văn nghệ lúc bấy giờ có làm đúng và đầy đủ như thế không, chưa nói đến; một điều có thể nói chắc là ai nấy đều cố gắng đi theo đường lối ấy. Đối với lãnh đạo, họ có thắc mắc gì không? Hầu như không có thắc mắc gì cả. Nếu có thì cũng đã chín bỏ làm mười, vì trong thời gian đó, cái vĩ đại, cái gian khổ mà vinh quang của cuộc kháng chiến ngập trên người họ, họ đang để lòng mà nghĩ đến kháng chiến, không nghĩ đến chuyện khác.

Ở đây tôi không đi sâu hơn, không đi tìm cái cớ tại làm sao mà sau khi thắng lợi trở về thủ đô, lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc đối với lãnh đạo; tôi chỉ đưa ra cái hiện tượng không tốt ấy sau khi trở về Hà Nội hai năm nay.

Thình lình tôi dùng cái danh từ “quần chúng văn nghệ” chắc có người thấy mà lấy làm chướng mắt. Nhưng không dùng nó thì không lấy gì đủ chỉ rõ một cái hiện tượng: cái hiện tượng đối lập, một bên là lãnh đạo văn nghệ, một bên là quần chúng văn nghệ. Trước kia, trong thời kháng chiến, lãnh đạo với thứ quần chúng ấy là một, mà bây giờ là hai. Thêm một điều đáng chú ý, là cái thứ quần chúng ấy, hiện nay, không chỉ là văn nghệ sĩ theo kháng chiến ở Việt Bắc, mà còn văn nghệ sĩ ở vùng mới giải phóng, mà còn văn nghệ sĩ ở Nam Bộ, ở khu V ra tập kết nữa, một thứ quần chúng khá đông đảo, hễ lãnh đạo không khéo thì nó dễ thành ra đối lập.

Ở dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường: nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường… Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải đi đến không đối lập, hễ còn có đối lập, là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt.

Sở dĩ có cái hiện tượng ấy là bởi trong lĩnh vực văn nghệ chúng ta hai năm nay có những điều sai lệch về lãnh đạo mà tôi sẽ cử đại khái ra như dưới đây. Đây là những việc nổi bật lên, tôi thấy rõ thì tôi nói; còn những việc khác, về mặt tổ chức, về mặt hành chính tôi không biết cho lắm thì tôi không nói.

I. VỀ VẤN ĐỀ TỰ DO VĂN NGHỆ SĨ

Sau khi về Hà Nội không lâu, giữa một cuộc tọa đàm ở trụ sở Hội Văn nghệ, một cán bộ cao cấp lấy tư cách cá nhân đề ra cái vấn đề “tự do của văn nghệ sĩ”. Cái vấn đề ấy được giải thích là: Có một số văn nghệ sĩ nào đó đòi tự do hay là có ý đòi tự do, mà tự do một cách bừa bãi, đến nỗi “ví như một kẻ kia đi trên đường phố, thấy có người ôm cái cặp da đẹp, giật ngang lấy đi, rồi nói rằng đó là tự do của mình vì mình thích cái cặp da.” Do đó, kết luận là: phải có lãnh đạo, văn nghệ sĩ phải ở dưới quyền lãnh đạo.

Tôi thấy vấn đề đặt như thế không đúng. Sự thực trước mắt chúng ta không hề có như thế.

Bao nhiêu văn nghệ sĩ từng theo kháng chiến, không luận ở Việt Bắc, ở Nam Bộ, ở Khu V, đều đã ở trong Hội Văn nghệ, đều đã bằng lòng chịu lãnh đạo rồi, nếu họ không bằng lòng chịu lãnh đạo thì họ đã không ở trong Hội Văn nghệ. Còn những văn nghệ sĩ ở vùng mới giải phóng, họ còn ở lại đây tức là họ rắp tâm chịu lãnh đạo, nếu không thì họ đã đi vào Nam. Tóm lại, văn nghệ sĩ hiện nay có mặt ở miền Bắc không ai đòi tự do bừa bãi hết, không ai định “đánh giật cặp da” hết, tôi không biết vì sao lại đặt ra vấn đề ấy.

Quả thật như vậy, văn nghệ sĩ của chúng ta chẳng những đáng yêu mà lại đáng thương nữa. Họ biết trước kia họ đã đi sai đường, họ ngoan ngoãn chịu lãnh đạo. Mồ ma Tô Ngọc Vân, anh là một họa sĩ cụp vẽ mỹ nhân, năm 1948, anh còn vẽ bức tranh màu đề là “Hà Nội đứng lên”, trình bày một người thiếu phụ tuyệt đẹp đứng hiên ngang trong đống lửa, chung quanh là những nếp nhà đổ vì bom đạn. Thế mà sau đó anh chừa hẳn cái vai cụp ấy. (1) Ở Triển lãm Hội họa năm 1952, trong một bức tranh không có thể không có phụ nữ, thì anh vẽ một đám bà già và gái bé. Còn Thế Lữ, có lần tôi hỏi tại sao anh không làm thơ như trước kia. Anh trả lời rằng đợi đến bao giờ anh “chỉnh” lại được tâm hồn, cảm thông được với quần chúng cần lao, bấy giờ anh sẽ làm. Thứ văn nghệ sĩ như thế, mà nói họ đòi tự do, dù chưa phải là tự do bừa bãi, cũng đã oan họ lắm rồi, oan mà không có chỗ kêu.

Có lẽ bởi nhìn thấy ở một khía cạnh nào rồi nhận định hẳn như thế, nên từ đó lãnh đạo gắt hơn, kỳ tiêu diệt thứ tự do ấy của văn nghệ sĩ. Nhưng, sự thực, thứ tự do ấy vốn không có để bị tiêu diệt, mà cái cá tính của văn nghệ sĩ, cái nghệ thuật tính của văn nghệ, nhân đó, tuy chưa đến bị tiêu diệt, chứ cũng đã bị thương.

Chưa nói đến cá tính và nghệ thuật tính. Ngay đến ý kiến, ngôn luận của quần chúng văn nghệ dù rất bình thường, không có gì hại, cũng bị kìm hãm. Tôi là một người đã chịu cái điều khó chịu ấy, tôi nói ra đây tưởng không có ai ác đến nỗi bảo tôi là dựng đứng hay xuyên tạc như bên địch.

Sau khi về Hà Nội mấy tuần lễ, có một cuộc họp mặt văn nghệ sĩ với mấy đồng chí văn nghệ Liên Xô. Một đồng chí nói rằng mình vì không đọc được tiếng Việt cho nên không biết văn học Việt như thế nào, chứ còn mấy ngành khác như nhạc, họa, kịch đều thấy có tiến bộ cả. Nhân đó, tôi phát biểu ý kiến, đại khái tôi nói văn học Việt vì những điều kiện nào đó hạn chế, nên hiện thời nó còn thấp kém lắm, chưa theo kịp sự tiến bộ của mấy ngành kia. Lại, trong một cuộc họp khác sau đó, nói về âm nhạc, có mấy người đề cao nhạc cổ Việt Nam. Tôi tuy dốt âm nhạc chứ cũng biết rằng nhạc cổ của ta không cao đến cái mức ấy, bèn lại phát biểu ý kiến. Tôi thuật lại chuyện nghe ở người khác rằng có một nghệ sĩ nước bạn phê bình điệu hát chèo, trong đó đệm nhiều những “a ý a”, “tình tính tang”, còn đeo tính chất nguyên thủy. Mấy hôm sau, tôi gặp ông Hoài Thanh ở chỗ thang gác từng thứ hai của trụ sở Hội Văn nghệ, ông bảo rằng mấy lần phát biểu ý kiến của tôi đều đáng phê bình, nhất là lần sau, sao lại bằng vào lời một nghệ sĩ nước ngoài mà phủ định nhạc cổ? Tôi chưa kịp nói gì thì ông đã đi xuống khỏi thang gác. Tôi vào phòng riêng, nằm nghĩ mà tức lắm, không tức gì với ông Hoài Thanh mà tức với lãnh đạo. Từ đó có mặt trong cuộc họp nào tôi cũng không phát biểu ý kiến. Có anh em hỏi tôi sao không phát biểu. Tôi trả lời rằng vì không có ý kiến gì khác. Nhưng, thực ra, có ý kiến gì khác tôi cũng không thèm phát biểu. Nên nói thêm rằng tôi mong ông Hoài Thanh đưa tôi ra phê bình lắm, nhưng may làm sao không thấy đưa tôi ra phê bình, vì cái sự phê bình, tự phê bình được coi là võ khí ấy rất hiếm có trong cơ quan chúng tôi: hai năm nay chỉ có hai lần, một lần phê bình thơ Việt Bắc, một lần phê bình bài thơ của Trần Dần mà sau đây tôi sẽ nói đến.

Đó là lãnh đạo nghiệt ngã về nói; đây là về viết.

Tháng 10 năm ngoái, tôi được cắt cử nói chuyện trong cuộc kỷ niệm Lỗ Tấn. Trước khi nói, tôi phải viết ra trình qua lãnh đạo xem. Trong bài viết, có chỗ tôi nói Lỗ Tấn thông hiểu chủ nghĩa Mác lắm, nhưng trong văn chương của ông không hề dùng những danh từ mác-xít, mỗi khi đọc, làm tôi nghĩ đến con tằm: con tằm ăn dâu rồi nhả ra tơ, nếu nhả ra dâu thì không phải là con tằm. Ông Nguyễn Tuân hỏi tôi: “Nói như thế là định viser (ám chỉ) ai?” Đề nghị tôi nên chữa. Tôi lấy làm lạ, tôi sao lại có tâm địa xỏ lá đến nỗi mỗi khi nói phải có ám chỉ ai mới được; tuy vậy, tôi cứ hứa sẽ chữa. Một chỗ khác, nói về lối phiên dịch, Lỗ Tấn chủ trương trực dịch. Ông Hoài Thanh bảo tôi phải chữa, lấy lẽ rằng phiên dịch có nhiều lối, nếu lấy Lỗ Tấn làm khuôn mẫu thì Hồ Chủ tịch dịch Tỉnh ủy bí mật, không trực dịch, chẳng là không đúng hay sao? Tôi biết rõ rằng cái câu tôi nói đó chỉ thuật lại cái chủ trương của Lỗ Tấn, chẳng hề lấy làm khuôn mẫu, cũng chẳng hề đả động gì đến việc dịch của Hồ Chủ tịch hết, những tôi không cãi, cũng cứ hứa sẽ chữa, mà thật, tôi đã chữa ngay trong bản thảo trước mặt ông Hoài Thanh. Tôi tuy nhũn như con giun đối với lãnh đạo thể ấy, nhưng khi nói trước công chúng, tôi cứ nói theo nguyên văn của tôi, không chữa một chữ nào, vẫn không gặp sự phản ứng nào trong đám thính giả.

Đó là cái thói kỵ húy trong văn chương của thời phong kiến còn rớt lại. Thuở Thiệu Trị, ở trường thi hương Thừa Thiên, Đặng Huy Trứ vào trường tư, trong văn có câu “vi gia miêu chi hại”, nghĩa là làm hại giống mạ tốt, nhưng “gia miêu” là tên làng các vua triều Nguyễn, (2) quan trường sợ bóng sợ gió, sợ như thế có thể hiểu ra là làm hại làng của vua, bèn đánh rớt bay. Lại thuở Tự Đức, cũng trường thi Thừa Thiên, Lương Gia Hựu cũng vào trường tư, trong văn có câu “vi thiên tử chi ấp”, chữ “ấp” đó nghĩa là kinh đô, thế mà quan trường sợ có thể hiểu nôm na rằng thiên tử ôm ấp cô gái nào, cũng đánh rớt bay. Thử so sánh mà xem, có phải mấy ông lãnh đạo của tôi cũng sợ bóng sợ gió, cũng kỵ húy như mấy ông quan trường ấy không? Người ta làm cho tôi cảm thấy qua việc ấy rằng nước Việt Nam ngày xưa, triều đại là triều đại Thiệu Trị, Tự Đức, cái nguồn văn chương là Tứ thư, Ngũ kinh, còn nước Việt Nam ngày nay, cũng là triều đại gì đó, chỉ khác cái nguồn văn chương là mác-xít, chứ cái thói kỵ húy của quan trường thì không khác.

Trở lại vấn đề “tự do của văn nghệ sĩ”.

Thực ra thì, như trên đã nói, văn nghệ sĩ không đòi tự do bừa bãi, họ chịu ở dưới quyền lãnh đạo, chỉ duy cái vấn đề họ đặt ra là lãnh đạo phải như thế nào. Nói như thế cũng chưa hết ý. Phải nói rằng văn nghệ sĩ cũng muốn được tự do, nhưng họ chỉ yêu cầu được tự do trong nghệ thuật.

Đành rằng văn nghệ phục vụ chính trị, cho nên chính trị phải lãnh đạo văn nghệ. Nhưng phải hỏi: chính trị nếu muốn đạt đến cái mục đích của nó, thì cứ dùng những khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị, không được hay sao, mà phải cần dùng đến văn nghệ? Trả lời cho thành thật, e chính trị phải vỗ vai văn nghệ mà nói rằng: Sở dĩ tao tha thiết đến mầy là vì tao muốn lợi dụng cái nghệ thuật của mầy. Đã cởi mở với nhau như thế rồi, văn nghệ đồng ý. Nhưng phần nghệ thuật nầy là phần riêng của văn nghệ, chính trị không bao biện được, nó phải đòi được tự do trong phần ấy. Như thế, tưởng chính trị cũng lấy lẽ gì mà không đồng ý. “Hai bên đều có lợi”, cái nguyên tắc ấy, ở ngày nay, nó thích dụng trong bất cứ một sự hợp tác nào.

Nhưng hai năm nay, lãnh đạo văn nghệ của chúng ta đã đi quá trớn mà không giữ đúng cái giao ước bất thành văn ấy. Lãnh đạo đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ.

Trong văn nghệ, không cứ về ngành nào, sáng tác hay “sản xuất”, đều hầu như bị Ban Thường vụ của Hội xỏ sẹo dắt đi, hay quá lắm là nhúng tay vào. “Phục vụ công nông binh” và “phục vụ kịp thời”, cái đó đã đành rồi; “quần chúng văn nghệ” bực mình vì còn phải chịu mệnh lệnh của lãnh đạo ngoài những cái đó.

Tức như trước đây trong việc chấm giải thưởng về nhạc. Có một bài nhạc, Ban chấm giải (gồm những nhạc sĩ chuyên môn) đặt vào hạng thấp, thì Ban Thường vụ bảo phải nhấc lên hạng cao, lấy lẽ rằng “lời” nó hay và đúng chính sách. Ban chấm giải trình bầy rằng tuy “lời” hay mà “nhạc” tầm thường nên để hạng thấp, nhưng không được, rốt lại cũng phải nhắc lên hạng cao. Một anh nhạc sĩ trong Ban chấm giải thuật chuyện ấy cho tôi nghe và phàn nàn rằng thế thì làm thơ làm văn cho hay và đúng chính sách cũng được, việc gì phải làm nhạc và phải giao cho nhạc sĩ chấm? Tôi cho phàn nàn như thế là có lý lắm, trừ ra khi nào Ban Thường vụ cũng là nhạc sĩ chuyên môn thì vấn đề còn phải thảo luận lại.

Để rồi đến ngày Đại hội, trong mỗi ngành sẽ có người đứng lên nói những sự thực như thế ra. Tôi ở ngành văn, tôi đã kể một chuyện về viết như trên kia cũng đủ thấy là khó chịu rồi. Cái sự bẻ bai bẻ họe của bà gia đối với nàng dâu, hà tất phải kể ra hàng tràng, thiên hạ mới biết.

Ông Nguyễn Tuân và ông Hoài Thanh đều là nhà văn nổi tiếng, tôi không nói các ổng không có thẩm quyền về nghệ thuật viết văn. Nhưng các ổng có nghệ thuật của các ổng, còn tôi có nghệ thuật của tôi. Trong nghệ thuật ngụ cái cá tính của mỗi người một khác, do đó cái nghệ thuật tính của văn nghệ của mỗi tác giả cũng một khác. Có thế thì mới có được cái quang cảnh “trăm hoa đua nở”. Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết. Mà nếu cứ thế nầy mãi, than ôi, cái ngày ấy cũng chẳng xa đâu!

Cái tác phong lãnh đạo ấy hiện đã truyền nhiễm khắp Hà Nội rồi. Một tòa soạn nào đó cũng có quyền chữa bài của tôi, vứt bài của tôi. Mà phải chi đáng chữa mà chữa, đáng vứt mà vứt cho cam. Mới đây, trước ngày 20 tháng 7, có một nhà báo – giấu làm gì? Nói ngay là nhà báo Tổ quốc – nhà báo Tổ quốc viết thư cậy tôi viết một bài. “Viết một bài về chuyện miền Nam”, như thế là đã “ra đề” cho tôi “làm bài” đó, tưởng cũng đủ lắm rồi. Trong thư, ông đại chủ bút còn “dàn bài” cho tôi nữa: những là “yêu cầu” thế này, “mục đích” thế nọ, và hạn từ một ngàn rưởi chữ đến hai ngàn chữ. Tôi lấy làm đau xót quá (có lẽ đó vì tôi tự ái, đáng kiểm thảo), bèn kiếm cách từ chối. Cụ Đồ Chiểu ơi! Cụ Đồ Chiểu! Ở thời cụ, cụ đã kêu:

Ở đây nào phải trường thi

Ra đề, hạn vận một khi buộc ràng?

thế mà đến ngày nay, bảy tám mươi năm sau cụ, người ta còn ra đề, dàn bài, lại hạn chữ cho tôi nữa đó cụ ơi! Tôi còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!

II. VỀ VỤ GIAI PHẨM MÙA XUÂN

          Lãnh đạo như thế cho nên mới có tập Giai phẩm mùa Xuân. Nói cho tiêu tội, mấy người viết Giai phẩm mùa Xuân, họ vốn không hề cho tôi biết gì cả, nhưng khi tôi đọc thì tôi – có lẽ như tục ngữ nói: voi thuộc voi, ngựa thuộc ngựa, – tôi biết ngay là vì họ bất bình với lãnh đạo.

Sáng hôm mùng Một Tết âm lịch năm nay, ông Tố Hữu đến chơi trụ sở Hội Văn nghệ. Giữa anh em đông, ông hỏi ý kiến tôi về tập Giai phẩm mùa Xuân. Tôi nói trong đó chỉ có bài thơ của Trần Dần nói lôi thôi, có hơi không lợi; còn của Phùng Quán, của Lê Đạt, tôi thấy nói đúng đấy. “Chống công thức”, “quét rác rưởi tư tưởng”, là việc chúng ta cần phải làm. Có điều cái gì là công thức, cái gì là tư tưởng rác rưởi, chẳng những nên bảo họ nói rõ ra, mà còn nên bảo họ viết lên báo cho rõ ra. Ông Tố Hữu nói một câu có đông anh em cùng nghe: “Giấy mực đâu mà phí để cho họ viết?”. Thế rồi làm thinh. Tôi làm thinh, nghĩa là tôi trải đời đã nhiều rồi, tôi tròn lắm rồi, tôi không dại dột đến nỗi đã thế rồi mà còn cứ nói nữa.

Mấy hôm sau, nghe nói tập sách mỏng ấy bị thu về, tôi cho rằng sự thu về ấy là thất sách. Sao lại phải làm to chuyện cái chuyện không đáng làm to? Sao lại gợi cho những kẻ hiếu kỳ lén lút tìm mua tập sách ấy 3000đ một tập mà đọc? Sao lại làm như là sợ nó? Ở Trung Quốc, Hồ Phong nói xấu lãnh đạo văn nghệ đến thế, mà “ba sắp tài liệu” của Hồ Phong vẫn được công bố ra, cả đến cái ý kiến thư của hắn cũng được công bố ra, chẳng ai hề sợ.

Thế rồi một ngày xuân mới, ánh mặt trời ấm áp, tối lại, có mấy hạt mưa phùn để giúp cho những cây rụng lá mùa đông nứt lộc ra, thì ở trụ sở Hội Văn nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi tội độc một Trần Dần thôi, là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ người trong Giai phẩm, cái ngón ấy đã thành công. Hết thảy có độ một trăm rưởi người, trong đó có vài chục người đứng lên nói, đại khái giống nhau về kết luận là Trần Dần có tội. Không phải không có những người thấy rằng Trần Dần dù có tội cũng không đến to như thế, nhưng mà họ đành làm thinh.

Tôi nhớ có một vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ “Người” viết hoa. Lấy lẽ rằng chữ “Người” viết hoa lâu nay chỉ để xưng Hồ Chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ “Người” không phải để xưng Hồ Chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như mình ở trong chiêm bao: chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê Mỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng, rằng trong phép viết, chỉ có chữ nào thuộc về hoàng thượng mới phải đài, thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn, dám đài những chữ không phải thuộc về hoàng thượng. Nhưng may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình ngồi trong phòng họp Hội Văn nghệ.

Rồi đến ông Hoài Thanh viết một bài trên báo Văn nghệ, bằng giấy trắng mực đen, ghép Trần Dần vào tội phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta. (3)

Thật cái tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép một cách dễ dàng quá. Hồ Phong bên Trung Quốc, còn phải điều tra bao nhiêu năm, công bố “ba sắp tài liệu”, mới vạch mặt hắn là phản cách mạng, là tay sai của Tưởng Giới Thạch được. Tôi lại còn thấy một cái tài liệu, nói Hồ Phong từng bị bắt quả tang có một thanh gươm, ở cái nạm có bốn chữ “Tưởng Trung Chánh tặng”, ở cái lưỡi có ba chữ “đảng nhân hồn”. Như thế thì phản động là đáng lắm, có đâu chỉ một bài thơ mà đã là phản động?

Tuy vậy, Trần Dần còn có phúc hơn cậu cử Nguyễn Thuyên con trai cụ lớn Tiền quân Nguyễn Văn Thành nhiều lắm. Trần Dần với bài thơ hàng hơn năm trăm câu mà chỉ mang tiếng là phản động thôi, không như cậu cử Thuyên, bài thơ chỉ có 56 chữ, ý tứ vu vơ, mà bị chết chém, và còn liên lụy đến anh em, bè bạn, liên lụy đến ông cụ bố phải uống thuộc độc mà chết. Trong chỗ đó, tôi thấy thời đại dân cộng hòa dân chủ rộng rãi đối với văn nghệ hơn thời đại chuyên chế triều Gia Long rất nhiều.

Cuối cùng, ông Nguyễn Đình Thi, thư ký tòa soạn báo Văn nghệ viết liên tiếp ba bài đại cà sa phê bình tập Giai phẩm mùa Xuân. Sau khi ba số báo in ra xong, ông Thi đưa cả cho tôi xem và hỏi ý kiến tôi đối với ba bài ấy.

Đọc xong sau một hôm, hai chúng tôi nói chuyện với nhau. Tôi bảo ông Thi rằng ông đặt sai vấn đề. Vấn đề Giai phẩm là vấn đề lãnh đạo, chứ không phải vấn đề quần chúng. Tôi phân tích rõ ràng cho ông thấy rằng tại lãnh đạo văn nghệ có thế nào cho nên quần chúng văn nghệ mới bất bình mà phát biểu ra như thế. Ví dầu trong sự phát biểu của họ có lầm lỗi cũng còn là cái ngọn, mà cái gốc, phải tìm đến ở chỗ do lãnh đạo gây ra. Thế mà cả ba bài của ông Thi không có một chữ nào đụng đến lãnh đạo hết, chỉ đổ lỗi cho mấy người viết trong Giai phẩm, thế là không công bình, thế là quá đáng. Khi viết đây, tôi ngồi dưới ngọn đèn điện 20 nến, tôi nói có mặt đèn làm chứng, ông Thi đã nhận cho lời tôi nói là đúng, hứa sẽ viết phê bình lãnh đạo, nhưng mãi tới nay chưa thấy viết.

Đọc trong bài thứ nhất của ông Nguyễn Đình Thi, đến chỗ ông nói mấy người trong Giai phẩm là “cả vú lấp miệng em”, làm tôi nhớ lại một vài chuyện cũ mà tủm tỉm cười một mình. Năm 1920, tôi làm thư ký kiêm kế toán cho công ty Bạch Thái ở Hải Phòng, tôi thấy ông Bạch Thái Bưởi bóc lột công nhân làm tàu của ông rõ ràng, thế mà một hôm ông chỉ vào mặt các anh làm tàu mà nói rằng: “Chính chúng mầy bóc lột tao”; năm 1930 hay 1931 gì đó, tôi viết báo ở Sài Gòn, biết thực dân Pháp khủng bố cộng sản dã man hết sức, thế mà trên báo Tây, chúng gọi Xô-viết Nghệ An là “khủng bố đỏ” (terreur rouge). Nghề thế, hễ mình muốn người khác đừng nói đến cái tật xấu của mình, thì mình đem ngay cái tật xấu ấy đổ trên đầu người khác để đấm họng họ cho câm đi. Chính ông Nguyễn Đình Thi “cả vú lấp miệng em” cho nên ông bảo trước rằng bọn Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt là “cả vú lấp miệng em”. Thực ra thì bọn nầy có “vú” đâu mà “cả”, vả lại họ cũng không có ai là “em” họ hết.

Một tối họp buộc tội, không có một lời nào cãi lẽ; bốn bài báo buộc tội, không có một chữ nào trả lời: quả nhiên “miệng” đã bị “vú lấp” rồi. Đó là cái cơ hội cho một việc gì xảy ra.

III. VỀ VỤ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC 1954-1955

Sau khi giải thưởng nầy tuyên bố, ở đâu thì không biết, chứ ở Hà Nội, dư luận bàn tán xôn xao, nhiều người không phục, cho rằng có mấy tác phẩm trong đó không xứng đáng được giải. Nói như thế, có thể bị coi là nói vu vơ, không có bằng chứng. Nhưng muốn có bằng chứng cũng không thể có được, vì cả nước chỉ có một tờ báo Văn nghệ có thể đăng những bài phê bình văn nghệ, mà là của Hội Văn nghệ, thứ dư luận ấy có muốn phát biểu cũng không phát biểu vào đâu. Tuy vậy, bằng chứng cũng không phải toàn không có. Dạo trước, tờ Trăm hoa có ba bài của ba người công kích tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu, nhưng khốn nỗi, nó ra đến bài thứ ba thì nó chết. Dù vậy, tôi thấy dư luận ấy là quả có, chẳng tin, ai thử làm một cuộc trưng cầu ý kiến mà xem.

Chính tôi là một người ở trong Ban Chung khảo chấm giải, tôi đã biểu đồng tình với thứ dư luận ấy trước khi nó xôn xao, nghĩa là trước khi tuyên bố kết quả giải thưởng.

Ban Chung khảo có mười người, tôi là một. Tôi quên lửng, không biết do ai công cử hay chỉ định, khi nhận được giấy triệu tập thì cứ đi dự vào, làm việc, lãnh tiền thù lao, nhưng khi việc xong thì tôi đâm ra trách mình một cách bâng quơ: phải chi mình đừng được dự vào đó thì hay.

Tác phẩm của mỗi ngành trong văn học, như thơ, tiểu thuyết, kịch bản… sau khi chuyền cho nhau đọc rồi, về mỗi ngành có một buổi họp toàn ban để bình định thứ bậc. Trong khi bình định, hễ đồng ý với nhau thì thôi, bằng có mâu thuẫn thì biểu quyết bằng lối giơ tay, “thiểu số phục tùng đa số”.

Hôm bình định về thơ, tôi phản đối tập Ngôi sao đứng giải nhì, tôi nói: có vớt vát lắm thì cũng chỉ nên để nó đứng giải ba. Tôi cử ra những câu bí hiểm không thể hiểu nghĩa được, thì ông Huy Cận (một trong Ban chung khảo) bảo rằng đó là tại tôi “muốn” không hiểu thì không hiểu. Quái, tôi “muốn” làm sao được? Theo lẽ, ông Huy Cận nếu binh vực cho Ngôi sao thì phải cắt nghĩa rạch ròi những câu ấy ra, chứ sao lại bảo rằng tôi “muốn” không hiểu? Nhưng cả ban làm thinh, tự hồ ai cũng hiểu những câu ấy, không ai tỏ đồng ý với sự chỉ trích của tôi. Tôi còn cử ra những câu tầm thường quá, không xứng đáng là thơ, và nói rằng thơ Xuân Diệu ngày nay trở kém thơ Xuân Diệu ngày trước. Một ông trong ban (quên là ai) cãi rằng nếu thế thì bao lâu nay Đảng giáo dục Xuân Diệu không có hiệu quả gì sao? May mà một ông khác (quên là ai) lập tức đưa tay ngăn lại, nói đó không phải là cái luận cứ cứng vững, đừng đưa ra. Nhưng đồng thời tôi trót đã vọt miệng thốt ra câu này: Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng, chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu, thật như đức Khổng Tử đã dạy rằng: “Ngựa tứ chẳng kịp lưỡi”. Cũng vì tôi nên có sự mâu thuẫn, phải biểu quyết, thì tôi đứng về thiểu số, mà nhớ hình như thiểu số tuyệt đối.

Hôm khác bình định về tiểu thuyết. Tôi phản đối Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng đứng giải nhì. Tôi cử ra sáu bảy chỗ, kết luận rằng cái tiểu thuyết này nhiều chỗ không giống với sự thực, trái với chủ nghĩa hiện thực bước thứ nhất, nếu nó được giải cao thì khi ngoại quốc dịch nó ra, nhất là khi bên địch đọc nó, bất lợi cho văn học của chúng ta. Cả ban không ai bác lại lời tôi, tuyệt nhiên không có một người nào bác lại tôi, nhưng thế nào không biết, cuối cùng cũng phải biểu quyết, và tôi vẫn đứng về thiểu số, và lại là thiểu số tuyệt đối.

Đến khi việc đã xong rồi, Ban Chung khảo không còn có buổi họp nào nữa rồi, tôi mới tiếp được hai tác phẩm về ký sự, đều đứng giải ba, có thông tri bảo đọc và cho ý kiến. Tôi thấy cái Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh chỉ là bài viết chạy như bài đăng trên báo, không có gì là giá trị văn học, còn cái Lên công trường của Hồng Hà viết có công phu hơn. Tôi nhớ ra mình đã từng hạ hai tác phẩm của hai ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng xuống mà không được, bây giờ không còn có đủ sức bướng để mà hạ của ông Hoài Thanh xuống nữa, bèn viết một mẩu giấy đề nghị đưa Lên công trường lên giải nhì. Nhưng mẩu giấy ấy về sau chìm đi đâu mất, không ai nhắc đến.

Sau có một buổi họp giữa những người chấm giải với những người được giải. Đáng lẽ, một buổi họp như thế, thế nào Ban chấm giải cũng phải gợi cho những người được giải có thắc mắc gì thì nói ra. Bởi vì bây giờ không phải như thời phong kiến chấm trường thi, quan trường ăn tiền lấy đỗ bậy bạ rồi ai rớt nấy chịu. Nhưng mà không thấy đả động gì đến việc ấy. Gần rốt buổi họp tôi mới đề nghị xin cho nói thắc mắc. Thế rồi có mấy người nói thắc mắc của họ. (4) Cuối cùng tôi cũng đưa ra thắc mắc của tôi về cái sự hai lần bị đứng về thiểu số như đã nói trên. Tôi nói quả quyết rằng mặc dầu tôi đứng về thiểu số, chứ cái sự định đoạt ấy của đa số, tôi cho là không đúng, tôi nhất định không phục. Trong những người được giải, có một người đứng lên phát biểu ý kiến, lấy làm lạ rằng sao trong Ban Chung khảo không nhất trí với nhau, xong việc rồi lại còn có người đưa ra thắc mắc? Tan buổi họp, tôi nghĩ mà cũng lấy làm lạ rằng sao cái ông lấy làm lạ đó lại không ở trong Ban Chung khảo?

Đến hôm phát giải thưởng ở Câu lạc bộ Đoàn Kết, ban tổ chức đề nghị tôi làm một người trao giải. Tôi từ chối. Tôi sợ rằng trong khi trao giải hoặc rủi mà tôi gặp phải trao ba cái giải mà mình phản đối thì khổ cho mình. Khi tuyên bố ba cái giải mà tôi phản đối ấy tôi nhất định không vỗ tay. Tôi nhất định tỏ thái độ phản đối đến cùng.

Hôm thượng tuần tháng 6, tôi nằm trong Bệnh viện C, thấy mấy anh bộ đội đọc tập thơ Người chiến sĩ của Hồ Khải Đại mà chê rằng dở quá, tôi bèn mượn xem thì thấy quả thật là dở quá. Thế mà nó được giải ba văn học. Tập thơ nầy, tôi ở trong Ban Chung khảo chưa hề thấy mặt nó, sau cùng chỉ nhận được thông tri nói nó nguyên ở giải khuyến khích, nay tương lên giải ba. Ai tương lên? Thế có lạ không?

Ban Chung khảo theo đề nghị của ông Xuân Diệu, sau khi tuyên bố giải thưởng, phải làm nhiều cách tuyên truyền cổ động rầm rộ cho các tác phẩm được giải, và đã cắt cử người nào viết bài phê bình cho tác phẩm nào. Lâu mà không thấy mấy người viết. Tình cờ tôi hỏi một ông, ông trả lời: “Khó viết quá”. Câu trả lời đúng hết sức: lấy nó trúng giải thì dễ, chứ viết để tuyên truyền cổ động cho nó thì phải khó.

Cho đến hết tháng bảy mà chỉ có hai bài phê bình trên báo Văn nghệ. Một bài ông Hoàng Xuân Nhị (một trong Ban Chung khảo) phê bình Truyện anh Lục, độc giả không lấy làm mãn nguyện, có người đã nói, đọc nó chỉ thấy cái vẻ mô phạm hiền lành của một vị giáo sư đại học mà thôi. Một bài ông Hoài Thanh viết để binh vực cho Ngôi sao mà binh vực một cách gắng gượng quá, nhất là yếu, không hề chống cãi lại những chỗ đả kích trong ba bài của báo Trăm hoa. Tôi rất không phục ông Hoài Thanh ở điểm này: ông viết bài ấy sau ba bài của Trăm hoa mà ông không hề nhắc tới Trăm hoa lấy một tiếng, ông cố dìm nó xuống cũng như Phạm Quỳnh đã dìm báo Hữu Thanh của Ngô Đức Kế. Nếu không dìm thì là ông khinh, cũng như Phạm Quỳnh đã khinh báo Hữu Thanh của Ngô Đức Kế.

Về vụ này, có một điều, người ngoài không phải là tôi, không biết đến, thì không lấy làm quái. Ấy là điều, ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong Ban Chung khảo. Nếu chỉ ở trong Ban Chung khảo mà thôi, còn khá; thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở trong Ban Sơ khảo nữa. Sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến thuở xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn giữ sạch tiếng: Một người nào có con em đi thi, thì người ấy vẫn có được cắt cử cũng phải “hồi tị”, không được đi chấm trường. Bây giờ cả đến chính mình đi thi mà cũng không “hồi tị”: một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã “liêm chính” cả rồi; một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái “miệng” đã bị “vú lấp”.

Người ta cứ sợ “bên địch xuyên tạc”. Sao trong việc nầy không sợ? Nó cần gì phải xuyên tạc? Đọc mấy tác phẩm được giải thưởng nầy, tha hồ cho nó đánh giá văn học miền Bắc.

Gọi là phê bình, chỉ có thế; tôi chỉ trình bày mấy hiện tượng không tốt trong giới văn nghệ. Còn sửa chữa, mong ở Đại hội sắp tới, nếu toàn thể xét thấy lời tôi nói có đúng phần nào thì xin tùy đó mà sửa chữa.

Riêng tôi thì tôi chỉ muốn Hội chúng ta, trong việc lãnh đạo, thực hành cái nguyên tắc dân chủ tập trung, mà phải từ dưới lên trên rồi mới từ trên xuống dưới, nghĩa là theo ý kiến nguyện vọng của quần chúng văn nghệ để lãnh đạo văn nghệ. Đừng như hai năm nay, lấy ý kiến của năm ba người trong Ban Thường vụ, hoặc của một người nọ hay một người kia để lãnh đạo, mà cái ý kiến ấy số đông văn nghệ sĩ không tán thành.

Được như thế thì sẽ không còn có cái hiện tượng hai bên đối lập nữa. Đó là một điểm trọng yếu trong chương trình phát triển văn hóa để củng cố miền Bắc.

PHAN KHÔI

(Viết xong ngày 30-7-1956 tại Hà Nội)

Nguồn:

Giai phẩm mùa thu 1956, tập I,  Hà Nội, Nxb. Minh Đức, tháng 9/1956; bản in lần thứ hai, tr. 3-16.

Chú thích:

(1) cụp: mê ly, thích thú, khoái chí. (theo Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Nguyễn Văn Ái chủ biên, Nxb. Tp. HCM., 1994, tr. 190.

 (2) Các vua triều Nguyễn gốc ở làng Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (nguyên chú của Phan Khôi)
(3) Báo Văn nghệ số 110 ra ngày 1-3-56 (nguyên chú của Phan Khôi)
(4) Nhớ như có người đã thắc mắc về tập thơ Ngôi sao, nhưng tôi không chắc lắm, việc này có thể xét lại biên bản của Hội Văn nghệ về buổi họp ấy. – Ngày 20-8-56, thình lình có cuộc họp Ban Chấm giải, tôi phát hiện thêm ra một sự gian lận: Bao nhiêu lời phản đối của tôi về tập Ngôi sao đều bị bỏ hết, không ghi vào biên bản. Việc nầy, liền ngày đó, tôi có viết thư cho ông Tổng thư ký Đảng Lao Động biết. (Phan Khôi chua thêm ngày 21-8 trước khi tập sách lên khuôn.)