Trang chủ » Posts tagged 'Nhân văn – Giai phẩm'
Tag Archives: Nhân văn – Giai phẩm
ĐỀ XUẤT TÔN VINH DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI: PHAN KHÔI
Tác gia Phan Khôi (1887-1959) là một tên tuổi lớn trong hoạt động báo chí, văn học, tư tưởng Việt Nam ở thời hiện đại.
Quê tại Quảng Nam, sinh trưởng trong gia đình nhà nho, đời ông và đời cha đều đỗ đạt, làm quan, Phan Khôi theo Nho học từ nhỏ. Năm 1906 dự thi hương, đỗ Tú tài. Cũng từ cuối năm 1906, Phan Khôi tham gia phong trào duy tân, vận động cát tóc ngắn, đi quyên tiền và chọn người cho “Đông du”; đầu năm 1908 Phan Khôi là một trong số những thành viên trẻ được phong trào duy tân Quảng Nam cử ra Hà Nội học tiếng Pháp. Cũng thời gian đó tại Quảng Nam nổ ra vụ “xin xâu”, chính quyền Pháp ra tay đàn áp. Phan Khôi bị bắt đưa về Quảng Nam, bị kết án tù 3 năm; 1911 ra tù, Phan Khôi còn tiếp tục hoạt động trong “ám xã” thêm vài năm nữa; sau đó, ông xin ra khỏi tổ chức bí mật, để chuyển hướng đời mình sang “phụng sự Tổ quốc về mặt văn hóa″.
Từ bỏ con đường của chí sĩ, Phan Khôi bắt đầu tìm kiếm cho mình một phương hướng sống mới. Ông tìm học chữ Quốc ngữ, học tiếng Pháp, lại cũng tìm tòi học hỏi từ các nguồn sách báo từ Trung Hoa, từ Pháp đưa đến xứ ta.
Về nghề nghiệp mưu sinh, sau thời gian dạy học tại nhà, Phan Khôi bắt đầu viết báo (chữ Hán và chữ Việt) từ năm 1917 cho tạp chí Nam Phong ở Hà Nội với bút danh Chương Dân 章 民. Đầu 1918 ông ra Hà Nội làm việc trong tòa soạn báo này, song chỉ một năm sau, ông thôi việc về nhà. Năm 1919, ông vào Sài Gòn, viết cho tờ Quốc dân diễn đàn, và sau đó, cho tờ Lục tỉnh tân văn. Được vài tháng, lại bị buộc thôi việc.
Năm 1920, ông ra Hải Phòng, vào làm thư ký cho hãng tàu Bạch Thái. Đầu năm 1921 thôi việc ở đấy, lên Hà Nội, cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu thanh. Nhưng phần lớn thời gian suốt 5 năm (1921-1925) Phan Khôi cộng tác với Hội thánh Tin Lành ở Hà Nội (tức là Hội truyền giáo Phúc âm liên hiệp /Christian and Missionary Aliance; C&MA/, từ Hoa Kỳ vào Việt Nam) dịch Kinh Thánh Thiên Chúa giáo, dưới sự chủ trì của bà mục sư Grace Hazenberg Cadman. Đây là dịp rất may mắn để Phan Khôi được mở rộng tầm mắt, hiểu biết văn hóa Thiên Chúa giáo phương Tây, nhất là nhánh tôn giáo cải cách Tin Lành.
Đầu năm 1926, Phan Khôi đến Huế, mục đích là gặp Khâm sứ Pasquier để xin giấy phép ra một tờ báo nhưng việc không thành; ông ở nhờ nhà riêng Nguyễn Bá Trác, khi ấy vừa được bổ chức Tán lý bộ Học, đúng lúc Phan Bội Châu bị chính quyền Pháp, vì định bỏ tù cụ không được, bèn buộc cụ phải an trí tại Huế, cũng đang ở nhà Nguyễn Bá Trác; sự việc này sẽ gây nhiều rắc rối về sau. Cũng dịp đầu năm 1926, Phan Khôi vào Sài Gòn theo lời nhắn của chí sĩ Phan Châu Trinh, đã từ Pháp về Sài Gòn, và đang bị đau nặng, nằm tại nhà thầy thuốc Nguyễn An Cư (chú ruột Nguyễn An Ninh) rồi chết (24.3.1926). Phan Khôi ở trong nhóm những người chuẩn bị đám tang cụ Phan, được giao viết tiểu sử Phan Châu Trinh. Thế nhưng trong dư luận sĩ phu hai xứ Quảng lại có những đồn thổi rằng dường như Phan Khôi đồng mưu cùng Nguyễn Bá Trác dụ dỗ cụ Sào Nam về hàng Pháp, rằng dường như Phan Khôi được Khâm sứ Trung Kỳ đưa vô Nam ám sát cụ Tây Hồ! Phan Khôi bị ngờ vực, xua đuổi, phải rời Sài Gòn xuống Cà Mau, đến khoảng cuối năm 1927 mới trở lại Sài Gòn.
Từ đầu năm 1928 Phan Khôi bắt đầu viết dưới bút danh C.D. (ký tắt bút hiệu Chương Dân) cho tờ Đông Pháp Thời Báo, khi đó đã thuộc về chủ nhiệm Diệp Văn Kỳ (ông này mua lại tờ báo từ tay chủ nhiệm Nguyễn Kim Đính). Sang năm 1929, Đông Pháp Thời Báo đổi tên thành Thần Chung; Phan Khôi tiếp tục viết cho tờ này. Đôi khi ông cũng viết cho báo chữ Hán, tờ Quần Báo (hoặc Hoa Kiều Nhật Báo) của người Hoa ở Chợ Lớn. Từ tháng 5/1929, Phan Khôi và Đào Trinh Nhất cộng tác biên tập và viết bài cho tuần báo Phụ Nữ Tân Văn của chủ nhiệm Nguyễn Đức Nhuận. Tháng 3/1930, nhật báo Thần Chung bị đóng cửa, Phan Khôi chuyển sang viết cho nhật báo Trung Lập của chủ nhiệm Trần Thiện Quý, khi Bùi Thế Mỹ cũng từ Thần Chung chuyển sang làm chủ bút cho Trung Lập. Ngoài mấy tờ báo tại Sài Gòn, Phan Khôi đôi khi còn cộng tác với một số tờ báo ở Hà Nội như Phổ Thông (1930), Đông Tây (1931-32).
Hoạt động báo chí những năm 1928-1933 đã khiến tên tuổi Phan Khôi trở nên nổi bật trên trường dư luận văn chương báo chí tiếng Việt khắp cả ba miền.
Giữa năm 1933 ông ra Hà Nội, viết cho tờ Thực Nghiệp Dân Báo ít lâu rồi nhận lời của chủ nhân Nguyễn Văn Đa làm chủ bút tờ Phụ Nữ Thời Đàm, đổi tờ này từ nhật báo sang tuần báo (1933-34), duy trì tờ báo suốt 22 tuần, trước khi chuyển chức danh chủ bút cho Nguyễn Triệu Luật.
Đầu năm 1934 Phan Khôi về quê chịu tang cha, lại gửi bài cộng tác với các báo ở Sài Gòn như Công Luận (1934), Phụ Nữ Tân Văn (1934).
Đầu năm 1935, Phan Khôi tới Huế, làm chủ bút tờ nhật báo Tràng An của chủ nhiệm Bùi Huy Tín. Đầu năm 1936 ông thôi chủ bút tờ này, chuyển sang cộng tác viết bài cho tuần san Hà Nội Báo ở Hà Nội. Sau khi cho in cuốn sách Chương Dân Thi Thoại (nhà in Đắc Lập, Huế, 1936), Phan Khôi đứng ra sáng lập báo Sông Hương, một tờ tuần báo thiên về học thuật, nhất là sử học, văn học, ngôn ngữ, v.v., tuy vậy ông và tờ báo này vẫn tham dự nhiều hoạt động của báo giới giữa lúc phong trào Đông Dương đại hội đang lên cao. Do báo thất thu, Phan Khôi phải ngừng xuất bản Sông Hương sau 32 số, trước khi bán lại giấy phép Sông Hương cho nhóm cộng sản Nguyễn Cửu Thạnh, Phan Đăng Lưu. Những năm 1938-1940, Phan Khôi lúc ở Huế, lúc ở Sài Gòn, lúc ở quê Quảng Nam, vừa dạy học, vừa viết bài cho các tờ báo ở Hà Nội như Đông Dương Tạp Chí (tục bản), Thời Vụ, Dư Luận, Ngày Nay, Tao Đàn, Phổ Thông Bán Nguyệt San. Từ 1940 ông hầu như ở Sài Gòn, viết cho tờ Dân Báo của Bùi Thế Mỹ. Khoảng cuối 1941 đầu 1942, ông ngừng viết báo, từ Sài Gòn về quê Quảng Nam.
Đến đấy cũng chấm dứt hoạt động báo chí của Phan Khôi thời kỳ trước 1945.
***
Như đã nói trên, chính hoạt động báo chí tại Nam Kỳ, tại Sài Gòn đã làm nên tên tuổi nhà văn, nhà báo, học giả Phan Khôi. Ông xứng đáng được coi như một trong những tên tuổi hàng đầu của văn học và báo chí Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Phan Khôi có lúc nói ông tự xem mình là “viên tiểu tưởng của đạo quân bình dân tư tưởng”. Đây là sự tự xác định chính xác, giàu tự trọng tự khiêm của ông. Vốn là nhà nho nhưng đã không còn đi tiếp con đường thi đỗ làm quan, không thể can dự thế sự từ vai trò quan chức nhà nước. Ông không có cái may mắn được đào tạo chính quy trong nền học thuật Pháp-Việt mới, như một số người Việt cùng thế hệ. Ông phải tìm và đi con đường khác, tựu trung là con đường của người làm dân, người trong dân chúng. Bút danh Chương Dân được sử dụng từ 1917 nói khá rõ sự tự xác định ấy của ông. Ngay khi bằng tự học và tự trang bị nhiều nguồn kiến văn mới, ông cũng hiểu rõ mình đã ở trong hàng ngũ kẻ sĩ bình dân, trí giả bình dân. Do vậy, trong tranh biện tư tưởng học thuật, ông không đặt mục tiêu hay tham vọng thay thế những Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, những đại diện của một học vấn dù sao cũng chính quy hơn ông. Ông đặt mục tiêu đối thoại, phản biện lại các đại diện ấy với một sự chân thành lành mạnh.
1/ Phan Khôi và công việc xây dựng nền Quốc văn mới
Thời kỳ từ cuối thế kỷ XIX, nhất là từ đầu thế kỷ XX là một giai đoạn phát triển mới của văn học tiếng Việt, gắn với việc sử dụng chữ Quốc ngữ. Nếu văn chương tiếng Việt, ở các thời kỳ trước đó, được ghi dưới dạng chữ Nôm, chỉ là một trong các bộ phận của văn học Việt Nam (bên cạnh bộ phận viết bằng chữ Hán), thì từ nửa cuối thế kỷ XIX trở đi, bộ phận này dần dần trở thành bộ phận chủ yếu. Người ta biết, thời kỳ ấy, ở Nam Kỳ và sau đó trong toàn quốc, chữ Quốc ngữ được chính quyền thực dân Pháp đưa vào sử dụng như một trong các văn tự chính quy cho các giao tiếp hành chính công cộng, như một trong hai ngôn ngữ chính quy của nhà trường phổ thông ở Nam Kỳ, sau đó trong cả ba miền (nhà trường Pháp-Việt từ Tiểu học đến Trung học).
Hoạt động trong giới viết báo viết văn, Phan Khôi hiểu khá sâu sắc những chuyển biến đã, đang và sẽ xảy ra cho các diễn ngôn tiếng Việt ở thời đại mới. Ông biết khá rõ về những gì diễn ra trong văn hóa văn học ở nước láng giềng Trung Hoa: “Độ Dân Quốc gây dựng được năm bảy năm chi đó, Hồ Thích bắt đầu xướng ra cái thuyết dùng bạch thoại thế cho văn ngôn, làm cho văn thể nước Tàu biến đổi ngay và từ đó tư tưởng người Tàu cũng phát đạt rất mau”.(1) Ông biết, tiếng Việt dưới dạng các văn bản tác phẩm chữ Nôm của các thời đại trước hầu như chỉ nổi bật ở các thể thơ và văn vần, hầu như đạt tới trạng thái cổ điển, nhưng ở dạng tản văn, văn xuôi thì hầu như có quá ít trứ tác, không có những mẫu mực đủ để hậu thế thời ông có thể sử dụng vào viết văn viết báo. “…chữ Quốc ngữ của chúng ta ngày nay còn phân vân, chưa nhứt định, chưa có sách mẹo cùng các sách khác thuộc về phép làm văn, thì bước thứ nhứt là phải do chúng ta lập cái nền quốc văn cho vững chãi đã, rồi mới nói đến cái hay cái đẹp được; nghĩa là trước hết chúng ta phải tập viết văn cho đúng mẹo, cho thông. Hễ đã đúng mẹo, đã thông, rồi mới nhơn đó mà lập thành sách mẹo tiếng Việt Nam và lại nhơn đó lần lần làm ra các sách dạy phép làm văn, luyện đến cái hay cái đẹp, mà thành ra một nền văn chương Việt Nam vậy”. (2)
Ý thức về nhiệm vụ chung của các giới làm văn làm báo là xây dựng nền quốc văn mới, đã thúc đẩy Phan Khôi bắt tay vào một loạt công việc, một loạt đề tài về ngữ học, khởi đầu là vận động công chúng viết đúng chuẩn chữ Quốc ngữ.(3) Ông nhận thấy “người Bắc, người Trung, người Nam, mỗi nơi đều có sai lầm theo thói quen riêng của mình; chúng tôi hết sức công kích mà khuyên người ta phải viết cho đúng. Đúng gì? Đúng tiếng Việt Nam, đúng tiếng mẹ đẻ, đúng với tự vị Trương Vĩnh Ký và Paulus Của”. (4)
Tiếp đó là việc khởi thảo “Phép làm văn” tiếng Việt, một đề tài mà Phan Khôi đã viết và cho đăng từ 1930 trên tuần báo Phụ Nữ Tân Văn và về sau ông cổ vũ nhiều tác giả khác cùng làm, trên tuần báo Sông Hương ở Huế (1936-37) hoặc trên tạp chí Tao Đàn ở Hà Nội (1939). Phan Khôi quan niệm “phép làm văn” gồm các bộ phận chính là: 1/ “văn pháp” (grammaire), 2/ “luận lý học” (logique), 3/ “tu từ học” (rhétorique),(5) bởi vậy ông vừa viết những bài phân tích trong phạm vi ngữ pháp tiếng Việt, song ông cũng vượt ra ngoài phạm vi đó, bàn tới “cách xưng tên của người Việt Nam”,(6) “cách ngôn luận của người Á Đông”,(7) tới bộ môn “danh học” mà theo ông cần tôn vinh người mở đầu chính là Khổng Tử với thuyết “chính danh”, (8) tới tính chất của hành vi phát ngôn trên trang báo như là sự giao tiếp vắng mặt và các hệ lụy của nó. (9) Phan Khôi cũng bắt tay vào những công việc thiết thực như mở mục “Vai ngự sử trên đàn văn” để góp ý sửa sai về dùng từ, diễn ý, cho các đồng nghiệp cầm bút trong viết văn viết báo. (10)
Sống bằng nghề viết, chính Phan Khôi phải tự tìm tòi để tạo ra những lối viết hợp lý. Kinh nghiệm Trung Hoa “dùng bạch thoại” của Hồ Thích cho Phan Khôi thấy phải dựa vào thứ tiếng Việt sống động mà người Việt thời mình đang nói hàng ngày để tạo ra những lối viết hiện đại, thích hợp với đương thời. Thành công đầu tiên của ông là tạo được lối viết nghị luận, lối viết “không lấy văn làm mục đích mà lấy việc làm làm mục đích”, “khi nghị luận thì cứ băm vào việc mà nói, việc nên làm thế nào, nói hẳn ra thế ấy”. (11) Đương thời, lối viết nghị luận của Phan Khôi có những khác biệt rõ rệt so với lối viết nghị luận của Phạm Quỳnh, cũng khác biệt rõ rệt so với lối viết nghị luận của Nguyễn Văn Vĩnh.
Nếu lối viết nghị luận của Phan Khôi dựa chủ yếu trên bảng từ vựng tiếng Việt thông dụng ở cả hai miền Nam Bắc, thì khi viết “lối văn hàng ngày”, lối của một tay bút chủ trì cột báo (columnist), chủ trì các mục báo, các bài hài đàm, Phan Khôi đã chú trọng khai thác phương ngữ miền Nam, với khá nhiều từ vựng và mệnh đề khẩu ngữ thông dụng ở các vùng từ Quảng Nam vào đến Nam Kỳ. Đối với ông, đây là một văn phong của một tác giả dựa vào thứ phương ngữ quen thuộc với mình, nó cũng có giá trị ngang như một văn phong khác, ví dụ lối viết của Hoàng Tích Chu, vốn tận dụng nhiều hơn các đặc tính phương ngữ Bắc Kỳ.
Cả hai lối viết văn xuôi đều thiên về thể luận này của Phan Khôi đã là thành tựu được thừa nhận trong công chúng và đồng nghiệp ngay từ những năm 1930:
“Ông đã ở trong việc viết, dịch văn quốc ngữ nhiều năm; trong vài ba năm nay tên ông đã lừng lẫy trong báo giới, văn ông lại càng rõ ràng, khúc chiết, sáng sủa, dễ hiểu, thỉnh thoảng lại đưa cái hơi trào phúng mát mẻ mà khó chịu. Hiện nay văn viết báo của ông, trừ lối văn luận thuyết mà ông cũng là một tay đàn anh trong trường ngôn luận, ông còn một lối văn đặc biệt, là lối văn hàng ngày, nó hay, nó có duyên và vui vẻ làm sao, nó khéo đến cả trong lối sắp đặt từng câu từng chữ của ông, nó mặn mà thấm thía đến tinh thần người đọc. Đọc lên mà vui, mà mừng, mà thích, mà đắc ý; lại đọc lên mà ké né, mà xính vính, mà sợ, mà lo, mà tức giận, cấu đầu gãi tai, cũng trong câu văn ấy. Các nhà viết báo thiện nghệ ngày nay chưa chắc đã có một tay nào có được lối văn ấy, đủ ứng dụng hàng ngày trong một cơ quan ngôn luận. Thực vậy, lối văn hàng ngày trên báo của ông Phan Khôi có thể đem ra so sánh với lối văn hàng ngày của ông De la Fouchardière ở báo Œuvre bên Paris”. (12)
2/ Phan Khôi và công cuộc đổi mới tư tưởng
Phan Khôi có lúc đã tự coi mình “là một viên tiểu tướng của đạo quân bình dân tư tưởng, đi trước dẹp đường”, (1) của một nền học vấn bình dân, phổ cập, sẵn sàng chịu chất vấn và truy cầu chân lý. Sống trong một thời đại chuyển đổi, Phan Khôi ý thức rõ rệt về tình thế thay đổi hệ hình văn hóa khi xã hội Khổng giáo Á châu tiếp nhận các luồng sóng “Âu hóa”. Ông nhìn rõ khác biệt Đông-Tây không phải chủ yếu là khác biệt về bản sắc dân tộc hay vùng đất mà chính là khác biệt về trình độ phát triển; văn minh Âu Mỹ chính là văn minh mới mẻ nhất của nhân loại đương thời, với các đặc tính khoa học, dân chủ, tự do, là tiêu biểu cho xu thế tiến bộ của thời hiện đại. (2) Do vậy, hoạt động cải cách, đổi mới, “Âu hóa”, học theo văn minh Tây phương, chính là chuyển mình sang thời hiện đại.
Phan Khôi rất chú trọng làm rõ hàm nghĩa các phạm trù xã hội của văn minh phương Tây như chủ nghĩa cá nhân, nền dân chủ (cũng gọi là dân trị). Trong khi không ít cây bút nghị luận đương thời khó tránh khỏi tâm thế mô tả xuyên tạc chủ nghĩa cá nhân (individualisme) thành thái độ vị kỷ (égoisme), thì Phan Khôi trình bày cách hiểu chủ nghĩa cá nhân Âu Tây trước hết như là sự tự chủ của mỗi con người trưởng thành trước xã hội. “Chữ tự chủ ở đây nghĩa là mỗi người làm chủ lấy mình, cũng tức là cá nhân chủ nghĩa. Ở phương Tây, nói rằng “một người”, nghĩa là đối với thế giới, đối với quốc gia mà nói, chớ không phải phiếm nhiên. Đã gọi là người, thì người nào cũng vậy, ai ai cũng có cái địa vị cái tư cách đối với thế giới đối với quốc gia”,… “Bởi đó mới có sự tự do. Một người đã tới tuổi thành nhân rồi thì không còn ở dưới quyền cha mẹ nữa. Mà cũng không ở dưới quyền chánh phủ hay là dưới quyền ông nguyên thủ, song chỉ ở dưới quyền pháp luật”. (3)
Phan Khôi hiểu rằng sự phát triển con người cá nhân ấy chính là điều kiện để có xã hội dân trị tức xã hội dân chủ. “Muốn thực hành cái chủ nghĩa dân trị trong một nước nào thì người làm dân trong nước ấy trước phải thực hành cái cá nhân chủ nghĩa (individualisme) mới được”… “Cá nhân chủ nghĩa là hết thảy người trong nước, mỗi người đều độc lập về phần mình; mà độc lập cả hai đường: về tinh thần và về vật chất vậy. Độc lập về tinh thần, tức là mỗi người đều biết tự suy nghĩ lấy, tự phán đoán lấy, nhắm lẽ phải ở đâu thì theo đó, chớ không làm nô lệ cho ý kiến của người nào hay đảng phái nào. Độc lập về vật chất tức là độc lập về kinh tế, mỗi người đều làm lấy mà nuôi sự sống mình, chớ không chịu nhờ vả ai, dầu con cũng không nhờ cha, vợ cũng không nhờ chồng. Có độc lập như vậy rồi mới nói chuyện hiệp quần được”. (4)
Phân tích trạng thái tinh thần của xã hội Việt Nam, Phan Khôi chỉ ra ảnh hưởng rất nặng của ý thức hệ Khổng giáo, từ Trung Hoa truyền vào nước ta thời kỳ bị nội thuộc, trở thành công cụ của chế độ quân chủ chuyên chế ngoại bang, và sau đó, của chế độ quân chủ chuyên chế độc lập, tạo ra con người chức năng, con người công cụ, trói buộc con người vào trật tự quân chủ bằng những quy phạm đạo đức hà khắc.
Phan Khôi vạch rõ, Nho giáo đã được thể chế hóa vào cấu trúc chế độ quân chủ. “Trong Khổng giáo không có đặt riêng ra người cầm quyền chủ giáo như Giáo hoàng của đạo Thiên Chúa; mà ông vua tức là người chủ giáo đó, vì ông vua là chức “Quân” mà thêm cả chức “Sư”. Bởi vậy, người trong nước theo Khổng giáo, làm tín đồ Khổng Tử, đã đành, nhưng trong sự theo ấy lại còn phải ở dưới quyền vua nữa.” (5) Nho giáo chính là học thuyết biện hộ chế độ quân chủ chuyên chế, Nho học là nơi đào tạo các môn đồ – các nhà nho – theo mẫu hình người “quân tử”, có trách nhiệm phò tá, trợ giúp vị giáo chủ ( = ông vua) cai quản dân chúng ở đất nước mình; chế độ quân chủ lựa chọn quan chức chủ yếu từ giới nhà nho, thông qua các kỳ thi Nho học. Đây là điểm vừa khác biệt lại vừa tương đồng của Đông Á thời trung đại dưới các nền chuyên chế Nho giáo so với châu Âu trung đại dưới sự cai trị của nền quân chủ thần quyền theo Thiên Chúa giáo, mà Phan Khôi đã nhận ra. Nhà nho trong xã hội theo Nho giáo cũng giống như các giáo sĩ trong các xã hội theo Thiên Chúa giáo. Bằng hiểu biết và bằng trải nghiệm cá nhân, Phan Khôi khẳng định thuộc tính của nhà nho, sản phẩm của Khổng giáo, là: nhà nho bao giờ cũng phụng sự chế độ quân chủ, và nhà nho không bao giờ đứng về phía dân chủ! (6)
Sang thời cận hiện đại, khi các xã hội vùng Đông Á (Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, v.v.) chịu ảnh hưởng Tây phương, thì Khổng giáo phải đối đầu với làn sóng “Âu hóa”; các cuộc vận động “tân văn hóa” đều nhằm xây dựng tinh thần khoa học và dân chủ, tức là phải vượt qua những ảnh hưởng vốn đã thâm căn cố đế của Khổng giáo. Trên đất Việt Nam, các thiết chế xã hội gắn với Nho giáo bị xóa bỏ từng phần, không phải bởi chính người Việt mà là bởi thế lực thực dân từ phương Tây đến. Tuy vậy, việc hóa giải ý thức hệ Nho giáo và những ảnh hưởng sâu rộng của nó trong xã hội người Việt vẫn cần phải do người Việt thực hiện. Phan Khôi hình dung sự hóa giải ấy cần diễn ra trên một phổ rộng; về học thuyết, cần biến Nho giáo từ chỗ là những tôn chỉ “thiên kinh địa nghĩa” mà người ta phải tuân thủ trở thành đối tượng của nghiên cứu, phân tích, phê phán. Một số nét tinh túy mà Nho giáo tạo nên ở cư dân Việt như lòng ái quốc, đức chính trực, vai trò Nho học trong việc hình thành nhân cách, v.v., thì cần giữ lại, kế thừa. Những lề thói phi nhân, kỳ thị giữa người với người trong cộng đồng, do Nho giáo tạo ra hoặc dung dưỡng, thì cần nêu ra và tạo dư luận phản kháng, lên án, bài trừ.
Nhìn sâu hơn vào xã hội Việt Nam thời quân chủ, Phan Khôi vạch ra đặc tính của nó chẳng những chỉ là xã hội đẳng cấp, mà còn là một xã hội nam quyền, trọng nam khinh nữ, với những quy phạm và định kiến phi nhân, được nho giáo bênh vực và hợp pháp hoa, ví dụ chuẩn mực chữ “trinh” của Tống nho,(7) hoặc những tập quán về chế độ đại gia đình đã hình thành dưới ảnh hưởng Khổng giáo theo đó người gia trưởng có quyền áp chế các thành viên là con cháu, mẹ chồng được quyền áp chế nàng dâu, gây ra vô vàn thảm kịch không đáng có. (8)
Trong thời gian chủ trì các tờ báo chuyên về giới phụ nữ (từ tháng 5/1929 đến 1932 với tờ Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn, từ tháng 9/1933 đến tháng 2/1934 với tờ Phụ nữ thời đàm ở Hà Nội), Phan Khôi đã có hàng loạt bài viết nhiều loại, từ nghị luận đến khảo cứu, dịch thuật, tạp văn, nêu ra “vấn đề phụ nữ” trước xã hội Việt Nam, cho thấy một xã hội Việt Nam bước vào thời hiện đại không thể không từng bước khắc phục tình trạng bất bình đẳng nam nữ. Đây không chỉ là hoạt động có ý nghĩa tạo thêm nguồn lực lao động cho một nền công nghiệp, thương mại và dịch vụ đang mở ra, mà điều chủ yếu ở đây là ý nghĩa tranh đấu đòi quyền làm người cho một nửa dân cư vốn vẫn còn bị xã hội nam quyền kỳ thị, áp chế, tước đoạt. Các tờ báo phụ nữ do Phan Khôi chủ trì đã làm dấy lên phong trào phụ nữ bằng một loạt hoạt động xã hội, văn hóa, cổ vũ và hướng dẫn người phụ nữ tự trang bị thêm những hiểu biết và kỹ năng sống cần thiết cho bản thân và cho chức năng làm vợ, làm mẹ, làm người. Phan Khôi xứng đáng được thừa nhận như một trong những nhà hoạt động nữ quyền năng động nhất của Việt Nam những năm 1930s, một trong những tác gia Việt Nam tập hợp được một lượng tri thức về giới nữ thuộc loại đa dạng nhất, phong phú nhất.
3/ Phan Khôi, nhà sử học
Khả năng đọc nhiều biết rộng đã khiến ở Phan Khôi sớm hình thành con mắt sử học, quan tâm đến các tiến trình lịch sử.
Năm 1928, trên tờ Đông Pháp Thời Báo ở Sài Gòn, Phan Khôi, dưới bút danh C.D. đã khởi ra một cuộc thảo luận về việc có hay không sự kiện “nước Pháp giúp nước Nam”, tức là nhà nước Pháp giúp quân cụ và binh lính cho chúa Nguyễn Ánh trong nội chiến chống Tây Sơn, như một số tờ báo chữ Pháp ở Đông Dương đương thời rao truyền, khiến một vài tờ báo chữ Việt lặp lại. Bằng vào các nguồn sử liệu khác nhau, Phan Khôi vạch rõ: tuy giao ước Pháp-Việt 1787 được ký kết nhưng trước sau chính phủ Pháp đã không thực thi, họ không hề đưa quân lính hay tàu binh đến giúp Nguyễn Ánh, rốt cuộc cha Bá-đa-lộc dùng tiền của Nguyễn Ánh gửi mua được hai tàu binh và mộ được vài chục người Pháp, trong đó có một số võ quan Pháp bỏ ngũ đi với Bá-đa-lộc sang đầu quân giúp Nguyễn Ánh. Biện luận của Phan Khôi cho độc giả thấy, mấy chục người Pháp có mặt trong đội quân của Nguyễn Ánh chỉ là những lính đánh thuê nước ngoài, không phải người do chính phủ Pháp cử đến giúp. Tuy nhiên, Phan Khôi cảnh báo, những luận điệu tương tự thuyết “nước Pháp giúp nước Nam” có thể đã thâm nhập vào các bộ sử do người Tàu soạn, và ông kêu đòi các sử gia truyền Nguyễn phải làm sách để biện giải rõ về các sự kiện lịch sử Việt Nam cận đại. (1)
Năm 1929, Phan Khôi đã đóng vai trò chính tổ chức Cuộc thi quốc sử trên báo Thần Chung, đưa ra 30 bản sự tích các nhân vật lịch sử Việt Nam để bạn đọc bình chọn ra 10 nhân vật mà mình cho là tiêu biểu; một đề thi nữa là yêu cầu bạn độc chọn ra trong đó một nhân vật và viết một bài dài 3 trang cắt nghĩa vì sao mình cho đó là bậc nhất trong sử Việt. Tuy cuộc thi đã không có tổng kết trao giải, có thể vì nhật báo Thần Chung bị đóng cửa đột ngột (vào cuối tháng 3/1930), song những gì đã đưa lên báo trong suốt thời gian từ khi mở ra cuộc thi (đầu tháng 7/1929) đến hết năm 1929, đã là một cuộc phổ thông sử Việt khá hiếm hoi trên báo chí đương thời. Bằng việc đưa công chúng vào một cuộc thi bình chọn nhân vật “bực nhất″ trong quốc sử, Phan Khôi và những người tổ chức cuộc thi đã kích thích tinh thần tự do bình chọn của người tham dự, cũng tức là kích thích óc phê bình — chứ không chỉ vinh danh — nhân vật lịch sử. (2)
Năm 1935, khi làm chủ bút tờ Tràng An ở Huế, Phan Khôi đã tổ chức một số chuyên đề nhân 50 năm sự kiện kinh thành thất thủ (ngày 23/5 năm Hàm Nghi Ất Dậu 1885) với các bài viết của ông và của Hoài Thanh.
Năm 1936-37, với tuần báo Sông Hương do chính ông sáng lập, ông đã biến một phần tờ báo thành diễn đàn sử học với sự góp mặt của nhiều nhà văn và học giả; ông cũng đã đưa lên báo này những sử liệu do chính ông thâu nhặt được, như xác định vị trí của Thái Phiên và Trần Cao Vân trong khởi nghĩa Duy Tân (1916); sự kiện Nghĩa Hội chiếm tỉnh Quảng Nam hồi những năm 1880s được phản ánh trong vè Khâm sai; về lệ cống nạp người vàng sang Tàu; về lai lịch nhân vật là Bạch Xỉ từng xưng vua, v.v.
Đấy là ta chưa kể hàng loạt bài viết, dài ngắn khác nhau, về các nhân vật và sự kiện lịch sử Trung Hoa mà Phan Khôi tỏ rõ một sự theo rõi khá sát sao, từ hành tung các viên tướng quân phiệt đến ứng xử của các yếu nhân thời kỳ sau các mạng Tân Hợi. Đối với đời sống chính trị ở nước Trung Hoa Dân Quốc đương thời, Phan Khôi có cái nhìn khá tinh tường; ông thấy rõ cái bi kịch của một quốc gia từng tồn tại dưới ách quân chủ chuyên chế suốt hàng ngàn năm, sau cuộc cách mạng lật đổ nền quân chủ, đã không hình thành nổi một hiến pháp cộng hòa, đành theo phương án “dĩ đảng trị quốc”, thay ngôi vua thuộc một dòng họ bằng ngôi vua tập thể của nhóm đứng đầu đảng cầm quyền. Tình trạng “dĩ đảng trị quốc” này chỉ có hướng xử lý khi Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc chuyển dần sang nền chính trị đa nguyên, đa đảng, theo mô hình các quốc gia dân chủ phát triển; trong khi đó, những quốc gia do đảng cộng sản cầm quyền thì trong thực chất lại trở về với mô hình chế độ chuyên chế.
4/ Phan Khôi, nhà báo, cây bút chính luận
Viết văn nghị luận là một trong những sở trường của Phan Khôi. Văn nghị luận của ông không chỉ đề cập đến các vấn đề tư tưởng hay văn chương, mà cũng đề cập đến thời sự xã hội chính trị.
Ngay năm 1919, ông đã có bài viết (trên Lục Tỉnh Tân Văn, Sài Gòn) vạch mặt trò mỵ dân của Toàn quyền Alber Sarraut đằng sau việc ông này đưa ra yêu cầu chính quốc cho Đông Dương nhiều quyền tự chủ hơn trong một dịp diễn thuyết.
Năm 1929, trên báo Thần Chung ở Sài Gòn, Phan Khôi viết khá nhiều bài xã thuyết ký tên tòa soạn, bênh vực những người hoạt động chống Pháp trong các tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng, Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, Tân Việt đảng, bênh vực Nguyễn An Ninh, đòi cho những thành viên các tổ chức chống đối bị chính quyền bắt phải được xét xử tại tòa án của chính quyền Pháp chứ không được giao họ cho các quan chức của triều đình Huế xét xử, vốn áp dụng khung hình phạt rất nặng theo luật Gia Long.
Năm 1930, khi xảy ra các vụ biểu tình ở Nam Kỳ, Phan Khôi đã có những bài viết ký tên tòa soạn tờ Trung Lập Báo, yêu cầu những thành viên đảng Lập hiến Nam Kỳ có chân trong Hội đồng quản hạt hoặc Hội đồng thành phố Sài Gòn phải lên tiếng trước việc chính quyền thuộc địa dùng vũ lực đàn áp người biểu tình không tấc sắt trong tay. Nhân danh tòa soạn, Phan Khôi đã bút chiến với tờ Đuốc Nhà Nam xung quanh trách nhiệm của những người tự nhận là hoạt động chính trị, như các đảng viên Lập hiến Nam Kỳ, mà lại thiếu khá nhiều năng lực và chuẩn hành vi cần thiết để đối phó với các tình huống chính trị. Cuộc bút chiến này chỉ lộ rõ do một ngòi bút Phan Khôi chủ trì, khi chủ bút Đuốc Nhà Nam là Nguyễn Phan Long lâm thế bí, giở trò nói xấu cá nhân Phan Khôi. Những loạt bài đối thoại với đảng Lập hiến (Về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi; Nói về đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, v.v.) cho thấy một thái độ phê phán rất xây dựng đối với tổ chức chính trị này, được lập ra dường như chỉ để đối đáp với chính quyền Pháp ở thuộc địa, nhưng lại hầu như không có liên lạc gì với quần chúng cư dân Nam Kỳ, các vấn đề về tổ chức của đảng cũng còn nhiều bất ổn.
Năm 1935, khi được Bùi Huy Tín mời làm chủ bút đầu tiên của Tràng An Báo tại Huế, Phan Khôi đã hướng trang thời sự của tờ báo vào việc đối thoại với nền cai trị quân chủ đang đưa ra một vài tín hiệu thay đổi (khi vua Bảo Đại về nước trực tiếp chấp chính), kiểm định hiệu năng hoạt động của một số cơ quan, cơ chế trong bộ máy của nó, đôi khi cũng nêu một vài đề xuất mang tính bổ sung, chỉnh sửa hệ thống, cơ cấu. Tất nhiên, hoạt động thường xuyên của báo Tràng An thời kỳ Phan Khôi làm chủ bút là vạch ra những sự lạc hậu, non kém, bất cập, thiểu năng của bộ máy triều Nguyễn, từ những cơ quan tại triều đến những cơ quan cấp tỉnh cấp huyện.
Bên cạnh những vấn đề thuộc “lỗi hệ thống” trong cơ chế một nền quân chủ già cỗi lại bị đặt dưới ách “bảo hộ” của ngoại bang, một phương diện khác nữa mà Phan Khôi và báo Tràng An thường tập trung nhấn mạnh là vấn đề phẩm chất của quan lại. Mỗi dịp có sự cố liên quan đến những quan chức nhất định, ví dụ việc cách chức và khai phục Ngô Đình Diệm, lễ tang Nguyễn Hữu Bài với những lời xưng tụng quá đáng, hay một viên quan tại triều quá tham lam nhũng nhiễu chỉ bị trừng phạt nhẹ bằng cách đưa đi “trấn thủ” tỉnh ngoài, v.v. – đều là dịp để Phan Khôi và các cộng sự của ông trên Tràng An lên tiếng tố giác và nhân đó nhắc lại những tâm niệm lý tưởng muôn thuở của giới quan trường xuất thân Nho học: “người bất học không đáng ở ngôi cao”, “sự hệ trọng nhất trong phong hóa là cái đức liêm sỉ”, v.v.
Trong các loạt bài về các vụ việc kiện tụng, báo Tràng An thời Phan Khôi làm chủ bút luôn luôn vạch rõ những xử lý sai trái do những quan lại liên can được hối lộ hoặc câu kết nhau để moi tiền dân. Tờ báo rất chú trọng đến người dân, nhất là những trường hợp người dân là nạn nhân sự chà đạp, cướp bóc của hệ thống quan chức, nha lại. Những phóng sự đăng nhiều kỳ về vụ án điền thổ ở Phú Yên, về xét xử ly hôn của vợ chồng Tham Ân ở Hội An, về vụ kiện bị lấn chiếm mặt nước của dân làng chài Thủy Tú ngay “bên chân đền vua” đương thời, tức thành Huế, v.v. – thường không chỉ giản đơn là những loạt bài báo mà thực sự là những vụ việc sát cánh hỗ trợ dân oan trong các cuộc khiếu kiện dài ngày của họ. Những trường hợp nạn nhân như “người đàn bà bị bỏ đỉa vào tai”, người hành khách xe lửa bị nhà đoan bắt giam vì tình nghi buôn lậu thuốc phiện, hay ông cử họ Hồ bị viên tri phủ Quỳnh Lưu hành hung, v.v. – thường được Tràng An đề cập như những hồ sơ để ngỏ, lâu lâu lại bổ sung những tình tiết mới, cho thấy những khía cạnh xã hội phức tạp liên quan đến mỗi vụ việc, đồng thời cho thấy khả năng xử lý mỗi vụ việc trong những tương quan đương thời.
Với sự nỗ lực quyết liệt như thế, không có gì ngạc nhiên khi Phan Khôi sớm rời vị trí chủ bút nhật báo Tràng An, sau chưa đầy một năm làm việc.
5/ Phan Khôi và sự phát triển văn học theo hướng hiện đại
Sự kiện rất nổi tiếng, gắn với tên tuổi Phan Khôi là việc đầu năm 1932 bài báo “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” được ông công bố ở cả hai trung tâm dư luận lớn nhất đương thời: Hà Nội và Sài Gòn. (1) Giới làm thơ trẻ tuổi, hầu hết xuất thân từ nhà trường Pháp-Việt, đã hưởng ứng, tạo nên phong trào thơ mới, một cuộc cải cách thơ tiếng Việt, đưa thơ của người Việt thật sự bước sang thời hiện đại. Tên tuổi Phan Khôi được mang cái vinh dự là người phát động phong trào đổi mới thơ ca kể trên. Tuy nhiên, đấy chỉ là một trong khá nhiều công việc mà Phan Khôi đã làm theo hướng tác động, khích lệ sự sáng tạo những hình thức mới, thể tài, thể loại văn học mới.
Ông sớm nhận ra một chiều hướng vận động mới về mặt thể loại: “Bây giờ cả văn học của Á Đông đã day chiều và khuynh hướng theo văn học Thái Tây, nhắc tiểu thuyết và kịch bổn lên ngồi kề thánh kinh hiền truyện, thì ta cũng đã mô phỏng mà sáng tạo ra tiểu thuyết, kịch bổn rồi”. (2)
Ông chăm chú theo rõi sự phát triển của thơ và tiểu thuyết Việt Nam và đến năm 1933, khi đã xuất hiện thơ mới, trong văn xuôi tiểu thuyết đã xuất hiện Người sơn nhân (truyện ngắn của Lưu Trọng Lư) và Hồn bướm mơ tiên (tiểu thuyết của Khái Hưng) thì ông reo lên: đã bắt đầu kỷ nguyên mới của thơ và tiểu thuyết Việt Nam. (3)
Chính Phan Khôi đã viết bài mô tả khá chi tiết về bút chiến, một thể tài và một hoạt động báo chí,(4) loại hoạt động mà ông can dự không ít lần, suốt thời gian hiện diện trong trường ngôn luận.
“Lâu nay tôi đã nhận biết rằng trong nghề văn học rất cần có sự phê bình. Nhưng trong làng văn ta dường như chưa có chỗ dung được sự ấy”; bởi vậy, năm 1929, ông đã nhân dịp bàn về một bản dịch kinh Phật “để đổ chén thuốc đắng phê bình vào trong miệng người An Nam”,(5) tức là thực sự bắt tay vào làm công việc phê bình. Hoạt động phê bình, trong quan niệm của Phan Khôi, là rất rộng: “Hai chữ “phê bình”, ta không nên hiểu hẹp nghĩa nó. Nói về sự viết báo, không cứ phê bình một bài thi, một cuốn tiểu thuyết, một tác phẩm gì về mỹ thuật mới gọi là phê bình; mà cho đến khen hay chê một vị quan lại, biểu đồng tình hay phản đối một cuộc bãi công, cả đến nhân một cái thời sự rất tầm thường mà phát ra nghị luận, cũng đều gọi là phê bình được hết. Chẳng những viết ra trên giấy, mà ngày thường, giữa xã hội, ai nấy được lấy tư tưởng ý kiến mình mà bình luận mọi sự mọi vật, cũng gọi là phê bình. Bởi vậy, ở xã hội nào mà người ta ngôn luận được tự do, thì xã hội ấy, ta muốn kêu nó bằng “cái xã hội phê bình” cũng có nghĩa vậy”. (6)
Ông đã viết giới thiệu lối văn phê bình nhân vật, một thể tài của báo chí và của văn học, do nhà văn trẻ Thiếu Sơn đề xuất, (7) lối văn mà chính Phan Khôi cũng sẽ dùng để viết khá nhiều tác phẩm đặc sắc, dưới các tiểu mục như “tiểu phê bình về nhân vật, cả đàn bà lẫn đàn ông”, “tiểu phê bình về phong tục”, “tiểu phê bình về báo chí”, “tiểu phê bình về sách vở”, v.v. (8)
Ông rất quan tâm giới thiệu các thể trào phúng, khôi hài.(9) Thậm chí, một thể tài, một loại hình ghi chép trong đời sống thông tục mà xưa kia người Việt chưa có, là thể nhật ký, cũng được Phan Khôi quan tâm giới thiệu.(10) Ông được đọc giả và đồng nghiệp tin cậy để có thể nhờ giải đáp nhiều vấn đề, nhiều câu hỏi về chữ nghĩa, về văn chương và đời sống, kể cả những khái niệm như “đạo văn”. (11)
6/ Phan Khôi, một tác gia đa dạng
Phan Khôi tham dự văn học trong khá nhiều thể tài.
Trước hết Phan Khôi đã hoạt động như một nhà phê bình văn học, là tác giả những bài điểm bình các tác phẩm cụ thể, là người viết ra cuốn “thi thoại” đầu tiên ở Việt Nam, lại cũng là tác giả những bài báo tác động rõ rệt đến tiến trình văn học chung.
Phan Khôi cũng hoạt động như một nhà nghiên cứu văn học, thường xuyên nêu lên các vấn đề nảy sinh trên tiến trình văn học Việt Nam. Phan Khôi viết về khá nhiều tác gia, tác phẩm văn học Trung Hoa, từ các nhà tư tưởng cổ đại, trung đại, đến cận hiện đại. Nhiều tác giả được ông nhấn mạnh ở khía cạnh chống chuyên chế (ví dụ dịch Tư Mã Thiên: thư gửi Nhiệm An, “Thích khách liệt truyện”… ); những tác gia hiếu cổ như Cô Hồng Minh được ông tiếp cận theo lối châm biếm; những tác gia có chất đổi mới, “nổi loạn” như Hoàng Lư Ẩn, được ông trân trọng. Thời kỳ 1945-58: Phan Khôi vẫn theo dõi sát tình hình văn hóa Trung Hoa, từ thơ kiểu mới, di sản Lỗ Tấn, lý luận và sáng tác văn học Diên An, cho đến 1956 vẫn theo dõi các hiện tượng từ Hồ Phong đến phong trào chống phái hữu, tuy không có điều kiện viết về các hiện tượng ấy.
Phan Khôi là nhà thơ, là con người đã “chín” trong truyền thống thơ Hán-Việt lại có khát vọng bước ra khỏi quỹ đạo thơ cũ; thơ cũ của ông không nhiều và cũng không lưu lại sưu tập, chỉ có ít bài in báo; thơ mới Phan Khôi cũng có một số bài được ông đưa ra làm ví dụ cho “một lối thơ mới”; PK không là tác giả xuất sắc của thơ mới những lại được nhất trí ghi nhận là người khởi xướng; một số bài thơ Phan Khôi cho thấy lối thơ của kiểu người “lão thực”: tín hiệu hàng đầu là tín hiệu về giá trị của hồn thơ, tứ thơ, dù hình thức khô, đanh, mộc… chứ tuyệt nhiên không đèm đẹp…
Phan Khôi cũng là một tác giả văn xuôi tự sự. Ông đã từng viết truyện hư cấu, bằng chữ Hán (đăng Nam Phong) hoặc bằng chữ Quốc ngữ, tiêu biểu trong số đó là truyện dài Trở vỏ lửa ra (Phổ thông bán nguyệt san, 1939). Nếu mạch truyện hư cấu này không mấy thành công, do tác giả mạnh ở suy lý, logic, nhưng hơi thiếu linh hoạt, thiếu sinh động và chất sống trong mô tả, dựng người dựng cảnh, thì ở mảng hồi ức, tự truyện, như Đi học đi thi (đăng Sông Hương, 1937), các đoạn Phan Khôi tự truyện (đăng một số kỳ ở các báo khác nhau, 1939, 1940, 1941), các mẩu giai thoại trong tập Độc tại lâu bút ký (đăng Sông Hương, 1937) lại thành công rất rõ rệt.
Phan Khôi cũng là tác giả xuất sắc của văn tiểu phẩm, hoạt kê, châm biếm. Từ 1928, với Đông Pháp Thời Báo, qua Thần Chung 1929-30, Trung Lập, 1930-33, Thực Nghiệp Dân Báo, 1933; Phụ Nữ Thời Đàm, 1933-34, Tràng An, 1935-36, Sông Hương, 1936-37, đến tận 1941 trên Dân Báo, Phan Khôi trước sau đã viết ngót ngàn bài tiểu phẩm. Đặc tính thẩm mỹ của thể tài này còn chưa được nghiên cứu kỹ; nó rất mực văn chương, nhưng lại gắn với báo chí; trên trang báo bên cạnh các bài viết theo lối “thuật”, “luận”, “chứng” bao giờ cũng phải có các bài viết theo lối “biếm”, “hài”, “nhại”, “diễu”; nó có bản chất thẩm mỹ ra sao mà lại hầu như không thể thiếu trên các báo, dù nhật báo, tuần báo hay nguyệt san? Và vì sao nó dường như nhất thiết cần “mặt nạ tác giả”? Mức đa dạng trong các kiểu tiểu phẩm Phan Khôi, mức độ ảnh hưởng từ những mẫu mực ở Pháp (G. Fouchardière, C. Vautel) và ảnh hưởng truyền thống trào lộng trong văn hóa Việt? So sánh văn tiểu phẩm Phan Khôi với những người có viết tiểu phẩm đương thời: Hoàng Tích Chu, Ngô Tất Tố, Bùi Thế Mỹ, Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng, v.v… Từ đây nên chăng khảo sát phát hiện lại dòng văn tiểu phẩm của tác gia Việt Nam từ khi có báo in? — là những nhiệm vụ văn học sử chưa hề được đề xuất và giải quyết.
Phan Khôi cũng là một dịch giả. Trên báo chí trước 1945 ta thấy Phan Khôi dịch nhiều tác gia Trung Hoa: Tư Mã Thiên, Viên Mai, Lỗ Tấn, v.v.; dịch Kinh Thánh (đạo Thiên Chúa), chủ yếu là Tân Ước. Sau 1945 ông dịch một số tác gia văn học Diên An, dịch quan điểm ngôn ngữ của J. Stalin, dịch tác phẩm M. Gorki, dịch bài viết Chu Dương thể hiện tư tưởng văn nghệ Diên An, v.v.
Vượt ra ngoài phạm vi văn học, người ta không quên Phan Khôi còn hoạt động như một nhà ngôn ngữ học. Ngay từ khi tìm học chữ Quốc ngữ để viết văn viết báo (từ 1907), ông đã bắt đầu tiếp cận tiếng Việt như một đối tượng nghiên cứu. Phan Khôi đã lên tiếng hô hào đồng bào Nam Kỳ dùng tiếng Việt theo đúng các chuẩn mực đã được Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của đưa vào sách từ điển. Ông đã tiến hành so sánh ngữ pháp tiếng Việt với tiếng Pháp và chữ Hán, khi soạn sách “Hán văn độc tu” (đăng Phụ nữ tân văn, 1932, đăng lại có sửa trên Sông Hương, 1936-37). Trên tuần báo Sông Hương ông đã tập hợp được một số tác giả tham gia mục “Quốc văn nghiên cứu”. Sau này, trong thời gian tham gia khánh chiến tại Việt Bắc, ông đã thực hiện thêm những khảo sát về ngữ pháp tiếng Việt, được các nhà soạn sách dạy tiếng Việt tham khảo; những nghiên cứu này được ông xuất bản thành sách “Việt ngữ nghiên cứu” (1955).
7/ Phan Khôi dưới thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Từ khoảng 1941-42, Phan Khôi ngừng cả việc dạy học lẫn việc viết báo, đưa gia đình từ Sài Gòn trở về quê Quảng Nam.
Nguồn tư liệu hồi ức gia đình cho biết: khi Nguyễn Bá Trác đến vận động ông tham gia chính phủ Trần Trọng Kim (1945), ông đã tỏ rõ thái độ cự tuyệt, với lý do: từ lâu, ông đã tự xác định không làm chính trị. (1)
Khi Việt Minh tổ chức cướp chính quyền tại địa phương ông cư trú, Phan Khôi giữ thái độ quan sát bình tĩnh, dần dần đi đến chấp nhận chính thể Việt Nam Dân chú Cộng hòa, song cũng phản ứng trước một số hành động cực đoan của chính quyền địa phương, ví dụ việc họ định phá đền thờ Hoàng Diệu, vị Tổng đốc đã tuẫn tiết khi thành Hà Nội bị thất thủ (1882). Phan Khôi giữ lập trường yêu nước, không tán thành hiệp định sơ bộ (6.3.1946) mà chính phủ Hồ Chí Minh ký với Pháp.
Cũng theo nguồn tư liệu hồi ức gia đình thì khoảng tháng 6/1946, tiếp một nhóm trí thức từ Hội An, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Nghĩa tới nhà mình và được họ mời làm Chủ nhiệm Chi bộ Việt Nam Quốc Dân đảng vùng Nam-Ngãi, Phan Khôi đã tạm thời gác ý chí “không làm chính trị” để nhận lời, dù chỉ là cử chỉ đứng tên tượng trưng. (2)
Khoảng tháng 7/1946, ông nhận được giấy mời của Bộ Nội vụ do Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng ký, mời ông ra Hà Nội dự Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, sẽ khai mạc vào ngày 01/8/1946.
Phan Khôi tới Hà Nội vào ngày 6/7/1946, ở trọ tại nhà riêng ông Lê Dư. Ông được Lê Dư cho hay: Huỳnh Thúc Kháng nhắn Phan Khôi đừng tới gặp, vì có thể gây nghi ngờ (?).
Ngày 12/7/1946, Phan Khôi đến trụ sở Quốc Dân Đảng (80 Quán Thánh, Hà Nội) tại tòa soạn báo Việt Nam có Khái Hưng và một số người khác; ngay hôm đó nhà này bị công an ập đến triệt phá, bắt đi một số người, trong đó có Phan Khôi, nhưng tại trụ sở công an Phan Khôi được thả ngay. (3)
Phan Khôi dự Hội nghị văn hóa toàn quốc (24/11/1946). Sau đó, vào ngày bùng nổ Toàn quốc kháng chiến, ông thấy rõ chính phủ Việt Minh quyết tâm chống Pháp, hợp với chủ ý của mình, ông ở lại Hà Nội.
Khoảng 29 Tết Đinh Hợi 1947, Phan Khôi theo dòng người tản cư rời Hà Nội, đi Yên Hạ, Hà Đông, rồi lại theo dòng người quay lên vượt sông Hồng định đi Bắc Giang, bị công an giữ lại, đưa về Hà Đông, rồi ông đề nghị để ông đi Vân Đình, tới đây ông gặp gia đình Thế Lữ tại Hòa Xá. Từ đó ông và những người này gia nhập Đoàn văn hóa kháng chiến do Nguyễn Huy Tưởng phụ trách, tản cư lên Việt Bắc. (4)
Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (16 – 20.7.1948, tại Đào Giã, Thanh Ba, Phú Thọ) Phan Khôi đọc tham luận “Một phương pháp dạy văn pháp tiếng ta”, sau đó được cử làm trưởng ban Ngôn ngữ-Văn tự của Hội văn hóa Việt Nam. Ông cũng tham dự Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất (23-25.7.1948, tại Yên Kỳ, Hạ Hòa, Phú Thọ) thành lập Hội văn nghệ Việt Nam, cộng tác thường xuyên với tạp chí Văn Nghệ của Hội.
Ông tham gia nhiều hoạt động cúa Hội văn nghệ, dự hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (25 — 28.9.1949), tham gia đoàn văn nghệ đi chiến dịch ngay sau hội nghị kể trên. (5)
Khi Hội văn nghệ Việt Nam đặt ra giải thưởng và xét trao giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1951-1952, Phan Khôi đã được trao giải nhì cho tất cả các bản dịch ông thực hiện tại Việt Bắc. (6)
Sau ngày phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản thủ đô, Phan Khôi trở về Hà Nội (giữa tháng 10/1954) trong tư cách một nhân sĩ, làm việc tại Hội văn nghệ Việt Nam.
Năm 1955, ông được cử tham gia Phái đoàn Chính phủ vào thăm Liên khu Năm, nói chuyện về thắng lợi của cuộc kháng chiến tại hai cuộc mít tinh ở Quảng Ngãi và Bình Định.
Cũng trong năm 1955, hầu hết các thành viên gia đình ông, bằng các con đường khác nhau, đều tập kết ra miền Bắc.
Phan Khôi (và Tế Hanh) được cử đại diện Hội văn nghệ Việt Nam đi dự kỷ niệm 20 năm mất nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn (từ 16.10.1956); ông đọc tham luận tại lễ kỷ niệm này. Phan Khôi được kết nạp Hội nhà văn Việt Nam từ 1957.
Tại Hà Nội ông đưa in một số cuốn sách nghiên cứu (Việt ngữ nghiên cứu) dịch thuật (Tuyển tập tiểu thuyết Lỗ Tấn, tập I, tập II; Ánh lửa đằng trước; Anh Hai Đen lấy vợ), viết bài cho các tạp chí Văn Sử Địa, Tập san Đại học Sư Phạm, các báo Nhân dân, Văn nghệ, Văn, Tiền phong, v.v. Ông cộng tác với Ban Văn Sử Địa để viết những bài cung cấp tài liệu cho bộ sách “Tài liệu tham khảo Lịch sử cách mạng Việt Nam”, cụ thể là viết về phong trào “Vụ xin xâu ở Quảng Nam” 1908 và “Duy Tân khởi nghĩa” 1916.
Những năm 1955-1956, cuộc cải cách ruộng đất (1953-56) gây ra những khủng hoảng xã hội trầm trọng, khiến chính phủ và đảng cầm quyền phải xin lỗi dân và tiến hành sửa sai. Trong văn nghệ cũng bộc lộ nhiều vấn đề do việc quản lý tập trung quan liêu gây ra. Phan Khôi viết bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” nêu ra những cách làm việc thiếu minh bạch, như người trong ban chấm giải (giải thưởng văn nghệ 1954-55) lại có tác phẩm dự xét giải; sự về hùa, ngầm ủng hộ tác giả này hơn hẳn các tác giả khác, thực chất là đã xuất hiện các nhóm lợi ích trong nền văn nghệ nhà nước hóa, v.v. Bài của ông được đăng trong tập Giai Phẩm Mùa Thu (tập 1, 1956) gây dư luận khá mạnh. Tháng 9/1956, Phan Khôi nhận lời với một nhóm nhà báo và văn nghệ sĩ đứng tên làm chủ nhiệm tờ báo tư nhân Nhân Văn (xuất bản tại Hà Nội từ 20/9/1956 đến 20/11/1956); tờ báo đăng tải những tác phẩm có những yếu tố táo bạo về sáng tạo hoặc có đề tài không phù hợp với phạm vi các chủ đề của văn nghệ chính thống; đồng thời đăng những ý kiến của văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác, những ý kiến của nhân sĩ trí thức đòi mở rộng dân chủ trong chế độ do đảng cộng sản cầm quyền.
Năm 1958, trong cao trào đấu tranh chống Nhân Văn – Giai Phẩm do đảng cầm quyền phát động và tổ chức, chỉ huy, Phan Khôi bị liệt vào một trong những “phần tử” hàng đầu (Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Thụy An, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, v.v.), bị khai trừ vĩnh viễn khỏi Hội nhà văn Việt Nam.
Ngày 16/1/1959, ông qua đời tại nhà riêng ở Hà Nội, sau thời gian bệnh nặng. Gia đình ông làm bản khai tử cho ông bằng bút danh Chương Dân; trong khi vợ, con, các cháu ông tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng thì những lời phê phán nặng nề trên báo chí vẫn liên tục nhắm vào con người tác giả mang họ tên Phan Khôi.
***
Tôi ghi lại tài liệu hơi dài như trên (có lúc sẽ sửa lại) để đi tới một vài nhận xét về Phan Khôi thời kỳ dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Công Hòa.
Ông vốn không tán thành chủ nghĩa cộng sản, và công khai thái độ này, tương tự một số người xuất thân nho học như Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Tất Tố. Những năm trước tháng 8/1945, khi con cháu ông tham gia hoạt động bí mật của tổ chức cộng sản, ông không tán thành nhưng không cấm đoán.
Ngay trong những ngày tháng đang diễn ra cướp chính quyền ở địa phương, ông im lặng theo dõi, và chỉ phản ứng khi có những việc như đập phá đền thờ Hoàng Diệu, hoặc khi nghe nội dung hiệp định sơ bộ (6/3/1946) thấy lập trường chính phủ lâm thời có phần không dám chống Pháp. Tức là khi ấy, con người yêu nước chống Pháp khi xưa trong ông thức dậy, đòi chính phủ mới chọn giải pháp quyết liệt.
Chính thái độ đó đã khiến ông tự nguyện đi lên Việt Bắc tham gia hàng ngũ kháng chiến.
Tại Việt Bắc, đến 1951, khi đảng Lao động Việt Nam ra công khai, thái độ Phan Khôi là chấp nhận. Có lẽ ông đã nghĩ rằng một trí thức cũ đã già, vẫn còn có thể làm những việc có ích ít nhiều cho dân tộc, ngay dưới nền cai trị cộng sản.
Tuy vậy, sống trong các vùng do những người cộng sản cai trị, sống trong “đoàn thể văn nghệ” của người cộng sản, có thể ông đã dần dần nhận ra những điều mà dư luận báo chí thế giới đã cảnh báo khi xưa, nhất là khi ông chứng kiến và trải nghiệm những việc như chỉnh huấn, rồi cải cách ruộng đất, rồi quản lý thành phố theo kiểu quân quản, thực hiện chế độ hộ khẩu khắc nghiệt, v.v. Từ đây bên trong những người trí thức từng trải qua hai chế độ sẽ hình thành thế ứng xử lưỡng phân đối với chế độ hiện hành do người cộng sản cai trị: một mặt là buộc lòng thích nghi, mặt khác là gia tăng ngấm ngầm tâm lý giữ khoảng cách, thậm chí trở nên chán ghét.
Vì đây là cả một điều kiện sống mà người ta không thể thoát ra ngoài, nên buộc phải thích nghi. Kể cả về tư tưởng, tinh thần, ở những mức nhất định. Một ví dụ nhỏ là Phan Khôi từng bác bỏ khái niệm “chế độ phong kiến” (ở Việt Nam) nhưng sau này, từ những năm 1950s, ông dường như từ bỏ thái độ học thuật ấy, ít ra là khi dịch và chú giải văn Lỗ Tấn, dịch văn xuôi tự sự và nghị luận của các tác giả văn nghệ Diên An.
Chính thái độ lưỡng phân ấy sẽ khiến những người như ông sẵn sàng lên tiếng phản ứng khi có điều kiện.
Điều kiện ấy ở Việt Nam là khi có những dấu hiệu khủng hoảng bên trong hệ thống xã hội do đảng cầm quyền cai trị tạo ra. Đại hội 20 ĐCS Liên Xô đặt ra nhiệm vụ chống sùng bái cá nhân Stalin, ở Việt Nam cải cách ruộng đất gây hậu quả nghiêm trọng. Trong văn nghệ, các văn nghệ sĩ từ các địa phương tập kết về miền Bắc, tập trung tại Hà Nội, ứng xử thiên lệch của nền báo chí xuất bản tập trung quan liêu kiểu bao cấp khiến nhiều thành viên ít vai vế chịu thiệt thòi. Trong sinh hoạt cơ quan đoàn thể lộ ra những biểu hiện thiếu tôn trọng quyền tự do sáng tác, tự do biểu đạt, v.v.
Phan Khôi lên tiếng với hai biểu hiện rõ rệt nhất: viết bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” và nhận đứng tên chủ nhiệm báo Nhân Văn. Ông có tư cách của một nhân sĩ trí thức đã có thành tựu lớn, uy tín lớn, nên tiếng nói của ông càng gây hiệu quả lớn.
Phía lãnh đạo cộng sản đã thay đổi cách nhìn về ông, từ đây xem ông như kẻ thù tư tưởng.
Thế nhưng, các biểu hiện của văn nghệ sĩ trí thức ở miền Bắc Việt Nam hồi 1956 chỉ là loại biểu hiện tương đối yếu ớt của sự phản kháng bên trong các nước thuộc phe XHCN đương thời, đến nỗi những diễn ngôn của các trí thức như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trương Tửu… mới chỉ hiện diện như diễn ngôn yêu cầu xét lại (mở rộng, chấp nhận ngoại lệ, v.v., chứ không chống lại) các nguyên lý cơ bản (của giáo điều Mác-Lê, mà thật ra là mang dấu ấn Stalin và Mao Trạch Đông).
Dưới ánh sáng lịch sử, sau khi phe XHCN đã sụp đổ, tan rã (1991), các nước thuộc khối này đã tiến hành cải tổ, đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường, một số nước chỉ níu giữ nền cai trị độc đảng, độc tài về chính trị, thì sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm cần được xem như sự phản kháng chính đáng của trí thức văn nghệ sĩ, những người nhạy cảm hơn các thành phần khác trong nhân dân, trước những nguy cơ mất tự do, dân chủ, trước nguy cơ bị áp đặt một hệ thống cai trị phản xã hội, phi nhân bản. Tiếng nói của họ có ý nghĩa cảnh báo các nguy cơ xã hội do nền độc tài chuyên chế gây ra.
Thật ra, đối với những người mà ngay trong thời thực dân Pháp cai trị đã có thể thành đạt, dù chỉ do nỗ lực riêng, và cũng chỉ ở môi trường xã hội dân sự dân gian như Phan Khôi, – thì cái chết đã có thể đến với ông ngay sau thắng lợi của Việt Minh hồi tháng 8/1945, chứng cứ là số phận những trí thức danh tiếng như Phạm Quỳnh, những nhà văn từ Khái Hưng đến Lan Khai và rất nhiều trường hợp khác. Xác tín truy diệt “trí phú địa hào” của người cộng sản Việt Nam bộc lộ từ 1930 đã hứa hẹn cái chết đối với Phan Khôi ngay tại Quảng Nam 1945 khi ông dám ngăn phá dỡ đền thờ Hoàng Diệu, hoặc tại Hà Nội 1946 khi ông bị bắt cùng Khái Hưng tại trụ sở Việt Nam Quốc dân đảng. Chỗ may mắn riêng là Phan Khôi có khá nhiều người thân trong hàng ngũ cộng sản cầm quyền. Đó là những người như các người em họ là Phan Nhụy, Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam), người em dâu là Lê Thị Xuyến, các người con trai là Phan Thao, Phan Cừ, v.v.
Tóm lại, trong thời kỳ khủng bố sự mọi chống đối ngay sau thắng lợi giành chính quyền của Việt Minh hồi tháng 8/1945, Phan Khôi đã may mắn thoát chết chỉ vì tình cờ có một loạt người thân trong hàng ngũ bên thắng cuộc.
Song rốt cuộc ông cũng vẫn bị thanh trừng, do bộc lộ sự vi phạm các chuẩn mực ý thức hệ cộng sản của giới cầm quyền, khi chế độ của họ đã làm chủ miền Bắc, đang đưa miền Bắc vào quỹ đạo chung của toàn phe XHCN.
Phan Khôi là một trong một số ít trí thức sống qua hai chế độ, đã từng có vinh dự là chí sĩ của phong trào duy tân, bị thực dân Pháp ra lệnh cho triều Nguyễn kết án tù, lại có vinh dự dấn thân tranh đấu chống độc tài chuyên chế, nhất là ở lĩnh vực tư tưởng văn nghệ. Sự khốn khó cuối cùng ông gánh chịu có thể nên được xem như là thêm một khổ nạn đối với cá nhân ông, nhưng cũng là thêm một công tích của ông đối với xã hội Việt và văn hóa Việt.
Phan Khôi xứng đáng để được vinh danh như một danh nhân văn hóa Việt Nam thời hiện đại.
Hà Nội, 16/11/2016
LẠI NGUYÊN ÂN
CHÚ THÍCH:
1/ Phan Khôi và công việc xây dựng nền Quốc văn mới
(1) C.D. (1928): “Lý với thế: Hồ Thích với Quốc Dân đảng”, Đông Pháp Thời Báo, Sài Gòn, s. 807 (18.12.1928).
(2) T.V.(1928): “Văn chương và văn chương của nhà báo. (Đáp lại Đuốc nhà Nam)”. Đông Pháp Thời Báo, Sài Gòn, s. 787 (27.10.1928).
(3) Ví dụ một số bài báo do Phan Khôi viết: Thần chung (1929): “Trả lời cho một vị độc giả hỏi về chữ quốc ngữ”, Thần chung, SG., s. 115 (7.6) ; Tòa soạn Thần chung (1929): “Lại trả lời cho một bức thơ hỏi vè chữ quốc ngữ”, Thần chung, SG., s. 118 (11.6) ; Phan Khôi (1929): “Chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ với thế lực của phụ nữ”, Phụ nữ tân văn, SG., s. 28 (7.11) ; Phan Khôi (1929): “Viết chữ quốc ngữ phải viết đúng”, Phụ nữ tân văn, SG., s. 31 (5.12) ; Phan Khôi (1929): “Nói chuyện viết quốc ngữ: Hai dấu hỏi ngã cũng phải phân biệt”, Thần chung, SG., s. 273 (17.12), Trung lập, SG., s. 6038 (27.12); Phan Khôi (1930): “Bàn cùng ông Hồ Duy Kiên: Tại làm sao chúng ta không nên bỏ chữ quốc ngữ và phải viết cho đúng?” Thần chung, SG., s 341 (20.3) ; Trung lập, SG., s. 6105 (22.3).
(4) Phan Khôi (1930): “Cuốn sách Nho giáo gợi ý cho chúng tôi”, Phụ nữ tân văn, SG., s. 56 (12.6).
(5) Phan Khôi (1930): “Phép làm văn. Lời nói đầu”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.71 (25.9). Mục “Phép làm văn” đăng Phụ nữ tân văn được khoảng 4 kỳ, gồm 5 bài, từ tháng 9 đến tháng 11/1930. Sau đó, Phan Khôi viết một số bài trao đổi với Huỳnh Thúc Kháng về “Phép đặt đầu đề”.
(6) Phan Khôi (1930): “Theo thuyết chánh danh, đính chánh lại cách xưng tên của người Việt Nam”, Phụ nữ tân văn, S.G., s. 58 (26.6.1930), s. 59 (3.7.1930) ; Phan Khôi (1930): “Theo thuyết chánh danh, soát lại mấy cái danh từ người mình thường dùng”, Phụ nữ tân văn, S.G., s. 69 (11.9.1930).
(7) Phan Khôi (1930): “Cách ngôn luận của người Á Đông”, Trung lập, S.G., s. 6168 (11.6.1930), s. 61670 (13.6.1930)
(8) Phan Khôi (1930): “Người mở đường cho luận lý học Á Đông. Khổng Tử và cái thuyết “chánh danh” của ngài”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.57 (19.6.1930)
(9) Phan Khôi (1930): “Con người với lời nói”, Phụ trương văn chương s. 22. Trung lập, S.G., s. 6550 (26.9.1931)
(10) C.D.(1931): “Vai ngự sử trên đàn văn”, Phụ nữ tân văn, S.G., s. s.89 (2.7.1931); s.91 (16.7.1931); s.96 (20.8.1931); s.99 (10.9.1931); s.124 (24.3.1932)
(11) Phan Khôi (1931): “Văn nghị luận phải viết thế nào ? ”, Phụ trương văn chương s. 12. Trung lập, S.G., s. 6491 (18.7.1931)
(12) Tr.Th. (1933): “Ông Phan Khôi”, trong sách Những áng văn hay, và Thử phê bình nhơn vật và văn thơ cổ kim (1933), Nam Ký thư quán, Hà Nội, tr. 42.
2/ Phan Khôi và công cuộc đổi mới tư tưởng
(1) Phan Khôi (1930): “Cảnh cáo các nhà học phiệt”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 62 (24.7).
(2) C.D. (1928): “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương”, Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, s.774 (27.9) ; s.776 (2.10) ; C.D. (1928): “Bác cái thuyết tân cựu điều hòa”, Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, s.780 (11.10)
(3) C.D.(1928): “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương”, Bđd.
(4) P.K. (1931): “Cá nhơn chủ nghĩa. (Một bài học của quan Tổng trưởng Paul Reynaud cho người Việt Nam) ”, Trung lập, S.G., 28.11).
(7) Phan Khôi (1931): “Tống nho với phụ nữ”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 96 (20.8.1931)
(8) Phan Khôi (1931): “Gia đình ở xứ ta, nay cũng đã thành ra vấn đề rồi”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 83 (21.5) ; Phan Khôi (1931): “Cái chế độ gia đình nước ta, đem gióng với luan lý Khổng Mạnh”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 85 (4.6)
3/ Phan Khôi, nhà sử học
(1) Xem thêm: Lại Nguyên Ân (2003), “Phan Khôi và cuộc thảo luận sử học năm 1928 trên Đông Pháp Thời Báo”, trong sách Mênh Mông Chật Chội, tiểu luận phê bình văn học của Lại Nguyên Ân, Nxb. Tri Thức, Hà Nội, 2009, tr. 391-401.
(2) Xem thêm: Lại Nguyên Ân (2008): “Phan Khôi và cuộc thi quốc sử của báo Thần Chung, Sài gòn, 1929”, trong sách Tìm lại di sản, tiểu luận phê bình của Lại Nguyên Ân, Tp.HCM., 2013, tr. 83-114.
5/ Phan Khôi và sự phát triển văn học theo hướng hiện đại
(1) Phan Khôi (1932): “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, Tập văn mùa xuân, báo Đông Tây xb., Hà Nội, tết Nhâm Thân 1932; Phan Khôi (1932): “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 122 (10.3).
(2) Phan Khôi (1932): “Một lối văn mà xứ ta chưa có : nhựt ký”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 150 (23. 6)
(3) Chương Dân (1934): “Văn nghệ xứ ta năm 1933 và trước năm ấy. Cái kỷ nguyên mới của thơ và tiểu thuyết”, Công luận, Sài Gòn, số Tết (14.2)
(4) (không ghi tác giả, 1929) : “Bàn thêm về bút chiến”, Thần chung, s. 106 (28.5), s. 108 (30.5),
- 111 (2&3.6), s. 114 (6.6).
(5) Phan Khôi (1929): “Cùng sư Thiện Chiếu bànvề lối dịch sách, hay là phê bình lối dịch của sách Phật học tổng yếu”, Thần chung, Sài Gòn, s. 279 (24.12).
(6) Phan Khôi (1937): “Một xã hội cũng như một tờ báo, phải có cái thái độ phê bình và tiến bộ”, Đông Dương tạp chí, Hà Nội, s. 29 (27.11).
(7) Phan Khôi (1931): “Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 93 (30.7)
(8) Các bài này ký bút danh Hồng Ngâm hoặc Chương Dân, đăng Phụ nữ thời đàm ở Hà Nội, từ số 1 (17.9.1933) đến s. 22 (11.2.1934), có in lại trong sưu tập: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1933-1934, /Lại Nguyên Ân sưu tầm biên soạn/ Hà Nội 2013: Nxb. Tri Thức, tr. 278-360.
(9) Phan Khôi (1931): “Cái địa vị khôi hài trên đàn văn học”, Phụ trương văn chương s. 10. Trung lập, S.G., s. 6481 (4.7).
(10) Phan Khôi (1932): “Một lối văn mà xứ ta chưa có : nhựt ký”, Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 150 (23. 6)
(11) Phan Khôi (1932): “Làm vậy không phải là đạo văn. Trả lời cho ông Mai Lan Quế”, Phụ trương văn chương s. 48. Trung lập, S.G., s. 6695 (2.4)
7/ Phan Khôi dưới thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
(1) Xem: Phan An Sa (2013): Nắng được thì cứ nắng, Phan Khôi từ Sông Hương đến Nhân Văn, Nxb. Tri Thức, Hà Nội, 2013, tr. 265-266.
(2) Xem sách đã dẫn, tr. 288-294.
(3) Xem sách đã dẫn, tr. 300-312.
(4) Xem sách đã dẫn, tr. 312-315.
(5) Thao Trường (Nguyễn Huy Tưởng, 1949): “Văn nghệ sĩ xuất phát đi mặt trận”, Văn Nghệ, [Việt Bắc], s. 17&18, số Tranh luận (tháng 11&12/1949).
(6) “Kết quả giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1951-1952”, Văn Nghệ [Việt Bắc], s. 39 (tháng 2/1953)
MỘT BÀI THƠ CỦA NỮ TÁC GIẢ THỤY AN VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, 1956
CHIẾC LƯỢC
MỘT BÔNG HOA BỊ VÙI DẬP – Bài thơ “Chiếc lược” của chị Thụy An sáng tác đã gần một năm nay. Theo lời chị thì bài này từ lâu đã đưa cho hội Văn nghệ và nhà xuất bản Văn nghệ. Hội Văn nghệ không có ý kiến gì. Các bạn trong nhà xuất bản Văn nghệ thì nhận xét thấy “tương đối khá” và chuyển sang vụ Văn hóa đại chúng đề nghị cho in vào loại phổ thông. Nhưng vụ Văn hoá đại chúng lại cho là bài thơ không hay, có trả lời rằng: “những bài thơ loại thế này chúng tôi có nhiều, vậy xin trả lại…”
TRĂM HOA được đọc “Chiếc lược”, nhận thấy bài thơ loại thế này rất hiếm. Thật là một bài thơ giá trị. Chúng tôi rất mong nhận được những sáng tác giá trị như thế này của chị Thụy An cũng như của các bạn khác, để vườn hoa được thêm nhiều hương sắc. – TRĂM HOA
CHIẾC LƯỢC
Lược em bé nhỏ
Lược em thanh thanh
Công ai đẽo gỗ chuốt thành
Để em chải mớ tóc xanh rà rà
Tóc em nuột nà
Em chửa muốn rời tay lược
Lược với tóc vân vi thỉ thót
Những năm dài mơ ước khát khao
Tóc em khi cun cút trái đào
Chiếc lược trong ô cô hàng xén
Thường đêm đêm hiển hiện trong mơ
Lược không đáng giá vài xu
U vẫn khất lần khất lữa
Khất ngày tóc chấm đầu vai
Đói cơm đói cháo anh ơi!
Lấy gì nuôi được tóc dài cho mau.
U dỗ: “Con sang hầu cụ Chánh
Kiếm cơm ăn, nhẹ gánh cho u
Cuối năm công bớt vài xu
Con mua lược chải tha hồ đẹp xinh”
Em đang mơ ước đinh ninh
Về nhà thằng địa chủ
Em đem mái tóc xanh
Về nhà thằng địa chủ
Hơi trâu thay hơi mẹ
Đòn vọt thay áo cơm
Đêm nằm gỡ cỏ gỡ rơm
Bám đầy trên tóc
Hẹn với tóc cuối năm mua lược
Làm tốt làm xinh
Năm lại năm tóc đã quấn vành
Thấy cô hàng xén mà đành ngoảnh đi
Nóng tai tiếng riễu tiếng chê
Con đầu bù quạ đánh
Áo tả tơi trăm mảnh
Hở cả ngực cả vai
Em càng biết hổ ngươi
Càng xót xa tủi cực
Đầu có bao nhiêu tóc
Là bấy nhiêu tội tình
Nhưng địa chủ tàn ác
Không cấm nổi tóc xanh
Đêm kia trống rộn mái đình
Bỗng xui em nhớ tuổi mình tròn trăng
Chỉ thô khíu vội áo quần
Em tưng bừng đi hội
Chợt nhớ đầu bù tóc rối
Chùn bước chân thui thủi phận mình
Hội làng đông ả đông anh
Em muốn chút xinh chút lịch
Mượn trộm lược của con mụ Chánh
Chải vội chải vàng
Tóc bóng mặt gương
Đầu ngôi thẳng tắp
Ra đình che áo rách
Tìm nơi tối nhất ngồi nghe
Tiếng hát giao duyên gió động cành tre
Gió đưa cành trúc tình ngơ ngẩn tình:
“Hỡi cô tóc tựa mây xanh
Đường ngôi như sợi chỉ mành mới ngâm
Có duyên xa cũng như gần…”
Em thẹn cúi gằm không hát đối
Nhưng từ đấy suốt trong đám hội
Bốn mắt trộm nhìn nhau
Lòng muốn nói trăm câu
Muốn hội dài mãi mãi
Trống rã đám còn hát với:
“Hẹn xuân sau ta lại với mình
Xuân sau tóc hẳn thêm xanh
Đường ngôi bắc nhịp cho mình gặp ta”.
Xuân sau áo rách xơ
Không tài gì khâu vá
Tóc rối bù tổ quạ
Lấp mất cả đường ngôi
Địa chủ ăn cướp công tôi
Tiền đâu mua lược đi chơi hội làng?
Trống đình giục nhớ giục thương
Gió đưa tiếng hát trách hờn của ai:
“Hẹn lời lời lại đơn sai
Đường ngôi rẽ lệch duyên hài đôi ta”
Vẳng nghe tiếng hát
Nước mắt như mưa
Cảm thương tóc rối đầu bù
Lấy gì dáng sớm duyên trưa với chàng?
Ai ngăn được kén đừng vàng?
Ai ngăn được suốt đừng ràng với thoi?
Em nửa sợ nửa vui
Lại đi mượn trộm lược
Nghe trống giục tay run cầm cập
Chiếc lược rơi đánh chát xuống sân
Thế là tai họa khôn ngăn
Vợ thằng Chánh túm lấy em đập đánh
Đánh chưa đã nó còn ác khoảnh
Lấy dao cau gọt sạch tóc mai
Sót công mười mấy năm trời
Cơm thiu cháo hẩm tôi nuôi tóc thề
Ngoài đình tiếng hát não nề:
“Tưởng đêm mở hội đi về có nhau
Bây giờ lược chẳng giắt đầu
Hội vui thiên hạ phải đâu của mình
Anh về tát nước thâu canh
Ngắm sao mà hỏi sao đành phụ nhau?”
Em quên tóc cụt đòn đau
Chạy vùng lên đình Thượng
Ai vì tôi ngăn cản
Cho ai đừng bỏ về
Đường đồng nhạt ánh sao khuya
In dài chiếc bóng
Đầu nửa trọc nửa buông sõng tóc
Áo quần tơi tả xác xơ
Khác gì xác quỷ hồn ma
Chạy ra đám hội để mà nát ai
Em nức nở từng hồi
Nằm vật bờ ruộng thấp
Khóc sưng vù đôi mắt
Chả thấy Bụt hiện lên
Hôm nay trống nổi liền liền
Tiếng gọi đi chia quả thực
Vợ chồng thằng Chánh ác nhân ác đức
Rẽ lứa duyên em
Đã gục xuống bùn đen
Không bao giờ ngóc nữa
Em đã hồng đôi má
Em đã thắm đôi môi
Tóc em đã mọc dài
Em đi nhận quả thực
Em chọn thêm chiếc lược
Về chải mãi chải hoài
Chúng chị em chớ cười
Em se sua làm dáng
Mười mấy năm mơ tưởng
Giờ lược mới về tay
Hẳn tiếng hát từ nay
Không bao giờ đứt khúc
Mái tóc mây em cài vành lược
Em ra đồng tát nước gầu đôi
Nhịp gầu tiếng hát đầy vơi
“Ước gì anh hóa lược cài tóc em
Tóc với lược liền liền sớm tối
Như ruộng đồng ở mãi với ta”
Nước rềnh giăng ngả đầu bờ
Mạ non gặp nước đôi vừa xứng đôi…
THỤY AN
Nguồn:
Trăm Hoa, loại mới, Hà nội, s. 3 (4.11.1956), tr. 3.
LẠI NGUYÊN ÂN và ALEC HOLCOMBE Con tim và lý trí của thi sĩ Xuân Diệu: giai đoạn 1954-1958 (phần 1)
Đông Hiến dịch
từ bản tiếng Anh: The Heart and Mind of the Poet Xuân Diệu: 1954-1958, đăng trong tạp chí
Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no.2, Summer 2010
Trong giai đoạn 1954 – 1958, Đảng Lao động Việt Nam, sau nhiều đợt giằng co tiến thoái, đã áp đặt được sự kiểm soát trên tất cả các lĩnh vực của hoạt động thông tin văn hóa và học thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đối với nhiều nhà trí thức cách mạng, tình trạng mất tự chủ về chuyên môn là một điều thất vọng đến bất ngờ. Họ từng nghĩ rằng những cống hiến trong kháng chiến chống Pháp (Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất – 1946-1954) và kết quả thắng lợi của cuộc kháng chiến là đủ chứng minh cho sự trung thành của mình với cách mạng. Họ cảm thấy như vậy là đương nhiên sẽ có thêm không gian riêng trong lĩnh vực chuyên môn, vốn nằm trong tầm kiểm soát chặt chẽ của đảng suốt tám năm kháng chiến.[1] Nhưng giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam lại nghĩ khác. Giai đoạn bốn năm sau khi chiến tranh kết thúc là thời gian giải quyết những khác biệt về quan điểm nói trên, đồng thời đặt ra những quy định thiết yếu cho đời sống trí thức của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đa phần vẫn còn được bảo lưu cho đến tận hôm nay. Chính ở giai đoạn ngắn ngủi này, tầng lớp trí thức của chế độ đã chứng kiến những đổi thay bất ngờ, những lật lọng khó đoán, và không ít người trong số họ đã tự mình trải nghiệm những xử lý khiến số phận họ hoàn toàn thay đổi.
Câu chuyện về những người trong hàng ngũ trí thức đã phản kháng quyết liệt nhất trước sự áp đặt và kiểm soát của giới lãnh đạo đảng – gồm những nhà văn, nhà thơ, họa sĩ và học giả gắn liền với phong trào Nhân văn-Giai phẩm – là một trong những lĩnh vực được để ý nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[2] Phong trào được đặt tên theo hai ấn phẩm do các nhà trí thức cách mạng bất mãn xuất bản vào năm 1956 – báo Nhân văn và các tuyển tập mang tên Giai phẩm, đã thu hút được sự chú ý của giới học giả trong nhiều thập kỷ chủ yếu vì nó được đánh giá là một trong những khoảng mở hiếm hoi để tìm hiểu về mức độ đắc nhân tâm của chủ nghĩa cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu thấy bất ngờ về mức độ đa dạng và thẳng thắn của những ý kiến và yêu cầu của năm mươi bảy nhà trí thức từng tham gia trực tiếp vào Nhân văn-Giai phẩm đã bày tỏ với chế độ Mác-xít-Lê-nin-nít và đã thu hút được sự đồng tình của số đông quần chúng.[3] Gộp chung những đề tài nghiên cứu hiện có về phong trào này, ta sẽ có được một bộ chân dung rất phong phú về những nhân vật trụ cột. Điều này được thực hiện một phần là nhờ những học giả phương Tây đã phỏng vấn được những thành viên của Nhân văn-Giai phẩm đang còn sống, sau khi các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam thi hành chính sách Đổi mới vào năm 1986.[4] Một yếu tố khác nữa là, cùng với thời gian, các học giả nghiên cứu về phong trào đã cân bằng trở lại, thoát khỏi ảnh hưởng của chính trị cực đoan thời Chiến tranh Lạnh, cũng như tư tưởng lạc quan tếu thời Đổi mới gần đây.
Tuy vậy, chân dung những trí thức nòng cốt, những người đã trợ giúp lãnh đạo đảng đàn áp, thanh lọc và trừng phạt những thành phần tham gia Nhân văn-Giai phẩm vẫn gần như giữ nguyên hình dạng đơn sắc, đơn tuyến và thậm xưng theo kiểu biếm họa so với những nghiên cứu của thời kỳ trước. Trong thực tế, nhiều nhà trí thức nòng cốt này tiếp tục có một sự nghiệp gây ảnh hưởng lớn trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thậm chí sau khi nhà nước này được hóa thân thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.[5] Thực ra, dấu ấn của những người này trên đời sống trí thức của Việt Nam còn sâu đậm hơn rất nhiều so với những nhân vật cải cách kém may mắn của phong trào Nhân văn-Giai phẩm. Bài luận này là một cố gắng giải quyết sự thiếu hụt thông tin nói trên, và chuyển hướng tiêu điểm của sự chú ý từ những ngôi sao của phong trào Nhân văn-Giai phẩm sang một trong những người bảo vệ quan điểm chính thống của đảng, đó là nhà thơ nổi tiếng, người đã cải hóa thành nhà thơ cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lê nin từ một quá khứ từng là thi sĩ lãng mạn vĩ đại, Xuân Diệu (1916-1985). Bản chất mối quan hệ của nhà thơ với Đảng Lao động Việt Nam là gì, và vì sao ông lại quyết định đả kích trực diện những nhà trí thức đã lên tiếng yêu cầu lãnh đạo đảng thực thi cải cách vào cuối năm 1956?
Vào những năm cuối thập niên 1950 và đầu 1960, học giả Sài Gòn Hoàng Văn Chí, một người gốc Bắc di cư và cựu thành viên của Việt Minh, lập luận rằng Xuân Diệu chỉ đơn thuần là một công chức làm việc cho Đảng Lao động Việt Nam như ông đã từng làm (nhân viên hải quan) cho Pháp thời thuộc địa.[6] Chịu ảnh hưởng của tác phẩm Giai cấp mới: Phân tích về Thế giới Cộng sản của Milovan Djilas xuất bản năm 1957, Hoàng Văn Chí cho rằng những trí thức nòng cốt như Xuân Diệu không phải là những tín đồ thật sự của chủ nghĩa Mác-Lê mà chỉ là những kẻ cơ hội chủ nghĩa có tham vọng chính trị, đàn áp Nhân văn-Giai phẩm để bảo vệ quyền lợi giai cấp của mình. Theo cách diễn giải này, Nhân văn-Giai phẩm là một phong trào yêu nước gồm những nhà trí thức đủ mọi tầng lớp đấu tranh chống lại sự “áp bức trí thức” mà giới tinh hoa văn hóa được chế độ sủng ái đang áp đặt lên họ. Hoàng Văn Chí nhìn nhận giới tinh hoa văn hóa này như một “giai cấp mới”, chung một bản chất ích kỷ và là những tay sai tận tụy của lãnh đạo đảng.[7]
Năm 1990, một học giả người Pháp, cựu đảng viên cộng sản tên là Georges Boudarel, người đã từng tham gia Việt Minh trong cuộc Chiến tranh Đông dương lần thứ nhất và sống tại Hà Nội từ năm 1954 đến tận năm 1964, xuất bản cuốn sách mở đầu cho dòng nghiên cứu về các trí thức đối kháng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhan đề Trăm Hoa Vẫn Nở Giữa Đêm Việt Nam: Chủ nghĩa Cộng sản và Bất đồng Chính kiến, 1954-1964 (Cent fleurs ecloses dán la nuit du Vietnam: communism et dissidence 1954-1964). Nếu như lập luận của Hoàng Văn Chí gần giống với của Djilas trong Giai cấp mới, thì tác phẩm của Boudarel có thể được coi như phiên bản Việt Nam của tác phẩm Cuộc Cách mạng bị phản bội của Leon Trotsky.[8] Học giả người Pháp này cho rằng các trí thức của phong trào Nhân văn-Giai phẩm chia sẻ sự tương đồng quan điểm ở chỗ cùng ghét cay ghét đắng một quan chức Văn nghệ kiểu Stalin: Tố Hữu, cùng phản đối chủ nghĩa Mao-ít, và cùng mong muốn chế độ mà họ đang phục vụ thực hiện những cam kết chính trị mang tính nhân văn (nhất là tự do ngôn luận).[9] Tuy nhiên, những vấn đề cốt lõi này, cũng như những điểm tương đồng khác như sự bất bình vì chứng kiến sự suy đồi văn hóa chính trị đang diễn ra xung quanh, và lòng căm ghét thường trực đối với chế độ Sài Gòn được Mỹ bảo trợ đã không đưa họ đến một sự thống nhất về một chương trình chính trị chung.[10] Về động cơ của Xuân Diệu khi tham gia đàn áp Nhân văn-Giai phẩm, Boudarel chỉ nêu ra một lý do là nhà thơ “thân cận với giới lãnh đạo đảng”.[11]
Ba năm sau, vào năm 1993, nhà lịch sử văn hóa Neil Jameison cũng đưa ra quan điểm riêng về vấn đề này, và lập luận trong cuốn sách Tìm hiểu Việt Nam rằng Xuân Diệu cũng như những trí thức cực tả khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có động cơ là niềm tin trung kiên vào chủ nghĩa Mác-Lê:
“Có lẽ Xuân Diệu là người nhiệt tình nhất trong số các nhà văn, nhà thơ tham gia Kháng chiến. Ông không còn bấu víu lấy cuộc đời bằng những móng tay và đối mặt với biên giới băng giá của chủ nghĩa hư vô nữa. Dưới ảnh hưởng của người bạn thân Huy Cận, Xuân Diệu đã trở thành một cảm tình viên nhiệt thành và được kết nạp Đảng vào năm 1947.[12] Sự nổi tiếng và tài thơ của ông là một đóng góp giá trị đối với Việt Minh. Để bù lại cho thành phần gia đình tư sản và quá khứ là thi sĩ lãng mạn nhất, Âu hóa nhất và riêng tư nhất trong văn giới Việt Nam, Xuân Diệu trở thành người cực đoan nhất trong giới văn nghệ cộng sản mới. Ông là người ca ngợi “Bác Hồ” và “Đảng” nhiệt tình hơn ai hết:
Mỗi lần tranh đấu gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm
Nghe lời Bác dạy khuyên răn
Chúng con ước muốn theo chân của người…
Chúng con thề nguyện một lời
Quyết tâm thành khẩn lột người từ đây.
Qua cụm từ “lột người từ đây”, Xuân Diệu muốn thể hiện chính xác, không thừa không thiếu, sự tái sinh dưới một diện mạo mới. Đây là sự thể hiện nguyện ước được “tái sinh” dưới chủ nghĩa cộng sản… Đây là lời thỉnh cầu được thay đổi bản ngã tương tự như việc cải đạo, một trải nghiệm tôn giáo, một sự lột xác hoàn toàn. Cả Lưu Trọng Lư và Xuân Diệu đã tìm được ý nghĩa mới và mục đích mới của cuộc đời, cùng thay đổi cá tính cũ của mình.[13]
Trong phần sau của cuốn sách, Jamieson lập luận rằng đối với Xuân Diệu cũng như các nhà thơ cách mạng khác, “kỷ luật của đảng cộng với tư cách thành viên trong một nhóm xã hội khép kín, có tính tổ chức cao đã khiến họ trút bỏ được gánh nặng của chủ nghĩa cá nhân và cho họ một diện mạo mới đắc ý hơn.”[14] Chính vì lý do đó, Jamieson cho rằng quyết định của Xuân Diệu tham gia ném đá Nhân văn-Giai phẩm xuất phát từ lòng tin cuồng nhiệt vào lý tưởng chung theo thuyết giáo của Đảng Lao động Việt Nam. Trong số các nghiên cứu về Xuân Diệu, ý kiến của Jamieson gần nhất với quan điểm chính thống, hiện vẫn được phổ biến ở trong nước khi đánh giá về nhà thơ.
Nghiên cứu mới nhất về Nhân văn-Giai phẩm của Kim Ninh (2002) và Heinz Schutte (2003) cũng có vẻ đồng điệu với quan điểm của Jamieson, coi Xuân Diệu như một tín đồ thực thụ của chủ nghĩa Mác-Lê trong khi các thành viên của Nhân văn-Giai phẩm có tính cách phức tạp, xuất phát từ sự đa dạng về cá tính, nghề nghiệp và lập trường chính trị. Schutte, trong bài nghiên cứu quan trọng về Nhân văn-Giai phẩm dưới lăng kính của Đại Sứ quán Đông Đức tại Hà Nội, đã viết như sau:
“Những đại diện của (phong trào) Thơ mới của những năm đầu thập kỷ 40 như Huy Cận (sinh năm 1920) và Xuân Diệu (1916-1985) – bị mất cảm hứng lãng mạn, phải chịu đựng sự đau khổ khi phải rời bỏ chủ nghĩa cá nhân, đã được Đảng, Việt Minh và cách mạng tái sinh, nên đã hòa nhập hoàn toàn vào tập thể cách mạng. Nhưng không phải trí thức Việt Nam nào cũng vậy. [Những thành viên phong trào Nhân văn-Giai phẩm như] nhà thơ Hoàng Cầm (sinh 1922), Trần Dần (1924-1927), và Lê Đạt (sinh 1929) và các học giả như Phan Khôi (1887-1959), Đào Duy Anh (1904-1988) và Trần Đức Thảo (1917-1993) chưa từng biến mình thành “những cái máy chỉ biết phục tùng” của đảng, được nhồi sọ, và tiếp thu một chiều, không phản biện với những khẩu hiệu thích hợp.” [15]
Như vậy, theo Schutte, Xuân Diệu đã “hòa nhập hoàn toàn” vào phong trào cách mạng, để trở thành (chúng ta có thể suy luận) một “cái máy chỉ biết phục tùng của đảng”, không phản biện suy tư về tư tưởng Mác-Lê của Đảng Lao động Việt Nam.
Chúng tôi cố gắng nêu ra qua bài luận này rằng Xuân Diệu, khi được nghiên cứu với phương pháp từng chỉ được dành riêng cho các thành viên của Nhân văn-Giai phẩm, sẽ không còn là hình ảnh một chiều, đơn tuyến như giới học giả thường mô tả ông. Thực chất, ông cũng có nhiều điểm giống với các thành viên của phong trào Nhân văn-Giai phẩm mà ông từng giúp đảng đàn áp. Trước hết, cũng như các tác giả nổi tiếng nhất của Nhân văn-Giai phẩm như Trần Dần, Lê Đạt và Hoàng Cầm, ông cũng gặp rắc rối với giới lãnh đạo đảng về các vấn đề liên quan đến đời sống tình cảm của mình.[16] Tuy nhiên, trong trường hợp của Xuân Diệu, vấn đề không phải là thành phần giai cấp của người bạn tình mình chọn, mà ở chỗ ông có nhiều bạn tình, tất cả đều là đàn ông. Điểm thứ hai, và cũng là một trong những điều trớ trêu đáng ghi nhớ nhất của giai đoạn này, Xuân Diệu chính là người, với vai trò thư ký toàn soạn của ấn phẩm văn hóa quan trọng nhất của đảng, báo Văn nghệ, đã xuất bản những bài viết đầu tiên của Hoàng Cầm và Lê Đạt trong nỗ lực xoay chuyển nền văn chương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[17] Vào tháng Năm năm 1955, những nhà văn trẻ có can đảm phê bình ngay cả nhân vật quyền lực nhất trong văn giới, Tố Hữu, có thể đã coi Xuân Diệu như một đồng minh. Điểm thứ ba là, đối với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa luôn gây tranh cãi, Xuân Diệu công khai ca ngợi dòng văn học này và lớn tiếng chê bai những tác phẩm lãng mạn cũ của mình, những sáng tác đã làm cho ông trở nên nổi tiếng. Nhưng chỉ cần nghiên cứu sơ qua về những sáng tác cách mạng của Xuân Diệu, ta cũng có thể nhận thấy những động thái cố gắng khai thác lại những đề tài và tiểu tiết từ các tác phẩm lãng mạn của ông. Trên thực tế, ta có thể thấy Xuân Diệu lưỡng lự không kém gì những thành viên của Nhân văn-Giai phẩm khi cân nhắc giá trị nghệ thuật của các tác phẩm trước và sau cách mạng.
Để đánh giá lại quan điểm chung đã được đa số tán thành, coi Xuân Diệu như một kẻ cuồng tín về tư tưởng cách mạng, có thể xem những lời bàn khá căng thẳng về sự nghiệp cách mạng của Xuân Diệu xuất hiện trong các tờ báo nhà nước và tư nhân hồi năm 1956, qua đó ta thấy nhiều đồng nghiệp đương thời đánh giá những lập ngôn lạc quan của nhà thơ, tuyên ngôn rằng mình đã chuyển hóa hoàn toàn từ chủ nghĩa lãng mạn cá nhân sang chủ nghĩa tập thể Mác-Lê, là thiếu thuyết phục. Một nhà trí thức phê bình Xuân Diệu có “bệnh khoái cảm” – khoái cảm bệnh hoạn khi tả về bạo lực chiến tranh trong thơ cách mạng, ngầm ám chỉ rằng cảm hứng sáng tác của Xuân Diệu không phải bắt nguồn từ lý tưởng cách mạng của chế độ.[18] Ba nhà trí thức khác viết bài bật mí những thông tin tai tiếng về âm mưu lũng đoạn tổ chức đảng từ hậu trường để mưu lợi riêng của nhà thơ, có ý chê Xuân Diệu là một cán bộ thoái hóa, vẫn giữ nguyên thói ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa như mọi người vẫn đánh giá trước khi nhà thơ tham gia cách mạng.[19]
Vì sao sự nghiệp cách mạng của Xuân Diệu lại gây nhiều tranh cãi đến vậy trong giới trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và rốt cuộc, thái độ thực của nhà thơ đối với hệ tư tưởng của chế độ là như thế nào?
Giai đoạn tiền cách mạng của Xuân Diệu
Một yếu tố quan trọng quyết định vị thế tương quan giữa cá nhân Xuân Diệu và Đảng Lao động Việt Nam là sự nghiệp sáng tác trước cách mạng của nhà thơ. Sinh năm 1916, ông sống với mẹ đẻ (là vợ hai của cha ông) suốt những năm tháng thơ ấu ngay tại làng quê của bà gần kề thành phố cảng Quy Nhơn. Năm ông 11 tuổi, cha ông (lúc đó đang dạy học) và người vợ cả của ông quyết định đã đến lúc cậu bé Xuân Diệu phải xa người mẹ đẻ, đến sống chung với họ tại thành phố Quy Nhơn để bắt đầu theo học ở một trường tiểu học gần nhà. Sau đó, ông học tiếp lên các cấp cao hơn và giành được văn bằng của hai trường thuộc địa danh tiếng nhất, là trường Lyceé du Protectorat (thường gọi là trường Bưởi) và trường Quốc học Huế.[20] Năm ông 19 tuổi, tức là vào năm 1936, Xuân Diệu bắt đầu có thơ đăng trên các tờ báo có liên quan mật thiết với nhóm Tự lực Văn đoàn và Phong trào Thơ mới – cả hai đều chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp và chủ nghĩa cá nhân Tây Âu. Sự nghiệp của ông lên nhanh, và chẳng mấy chốc Xuân Diệu trở thành một trong những tác giả quan trọng (nếu không muốn nói là quan trọng nhất) của Phong trào Thơ mới. Tiếng tăm của Xuân Diệu cũng nổi nhanh như sức lan tỏa của Thơ mới trong công chúng. Năm 1942, nhà phê bình văn học giai đoạn tiền chiến nổi tiếng Hoài Thanh đã mô tả về nhà thơ trẻ Xuân Diệu trong tác phẩm có nhiều ảnh hưởng của mình về các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Thi nhân Việt Nam: 1932-1941 như sau:
“Bây giờ khó mà nói dược cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng. Ngày một ngày hai cơ hồ ta không còn để ý đến những lối dùng chữ đặt câu quá Tây của Xuân Diệu, ta quên cả những ý tứ người đã mượn trong thơ Pháp. Cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta.”[21]
Hai tập thơ đầu tay của Xuân Diệu, Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945) được người đương thời cho là kiệt tác. Các nhà phê bình nhận thấy trong thơ ông sự cảm nhận sâu sắc về tính phù du của thời gian và sự mong manh của cuộc sống, và cả hai điều này đều làm gia tăng lòng khát khao tuổi trẻ, mùa xuân và tình yêu toát ra từ những câu thơ của Xuân Diệu.[22] Danh tiếng của Xuân Diệu khiến ông trở thành một đối tượng vô giá đối với các lãnh đạo cộng sản, những người sau này sẽ thường xuyên yêu cầu ông trấn an dư luận về chính sách văn hóa.
Ở Việt Nam, các nhà phê bình văn chương đã phong Xuân Diệu là ông hoàng thơ tình, và trong những năm gần đây, họ còn bắt đầu công khai thừa nhận rằng các bài thơ tình của ông được lấy cảm hứng chủ yếu từ các mối tình đồng tính của nhà thơ.[23] Ngoại trừ bài báo của Nguyễn Quốc Vinh về biến thái trong văn chương Việt Nam thời thuộc địa, cho tới nay các học giả phương Tây thường tránh đề cập trực tiếp về xu hướng luyến ái đồng tính của Xuân Diệu.[24]Hiển nhiên là họ không muốn khai thác khía cạnh đời tư này của nhà thơ, nhưng mặt khác lại muốn thể hiện là mình có biết về điều đó, nhất là với các độc giả có kiến thức, nên các nhà nghiên cứu thường chọn cách giải quyết vấn đề như Kim Ninh đã áp dụng trong cuốn sách xuất bản năm 2002 về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của mình, Một thế giới đã hoán cải. Bà viết, “Xuân Diệu, một ngôi sao sáng trong Phong trào Thơ mới, có thể dẫn Verlaine và Rimbaud một cách thoải mái, cảm thấy gần gũi với những nhà thơ Pháp hiện đại này không kém gì các nhà thơ trẻ cùng thời ở Paris”.[25] Những người quen thuộc với văn thơ lãng mạn Việt Nam có thể nhận ra ngay lập tức rằng tác giả đang muốn liên hệ đến một bài thơ của Xuân Diệu trong đó đồng tính luyến ái được thể hiện trực tiếp nhất, bài “Tình trai”, ca ngợi mối tình cháy bỏng giữa hai nhà thơ thuộc trường phái Tượng trưng Pháp, Paul Verlain và Arthur Rimbaud:
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine, Hai chàng thi sĩ choáng hơi men, Say thơ xa lạ, mê tình bạn, Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen. Những bước song song xéo dặm trường Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương, Họ đi, tay yếu trong tay mạnh, Nghe hát ân tình giữa gió sương. Kể chi chuyện trước với ngày sau; Quên ngó môi son với áo màu; Thây kệ thiên đường và địa ngục! Không hề mặc cả, họ yêu nhau.
Khi các lãnh đạo đảng kết nạp Xuân Diệu vào tổ chức công khai Việt Minh, họ đã tiếp nhận một thanh niên đầy tài năng và sức thu hút, đồng thời có lẽ cũng là nhân vật nổi tiếng có biểu hiện đồng tính lộ nhất ở Việt Nam tính đến thời điểm đó. Dù so ra vẫn là quá kín đáo theo tiêu chuẩn hiện tại, những bài thơ tiền chiến của Xuân Diệu có hàm chứa đề tài đồng tính, và rõ ràng là xu hướng đồng tính luyến ái của Xuân Diệu không những là một nguồn cảm hứng quan trọng đối với thơ ông, mà còn là một phần bản ngã của nhà thơ. Nhưng đương nhiên Đảng Lao động Việt Nam không hề khuyến khích tự do luyến ái, đừng nói tới chuyện luyến ái đồng tính. Để hai bên có thể hợp tác với nhau được, cần phải có một số điều nhân nhượng.
Giai đoạn mới tham gia cách mạng
Thời điểm đầu tiên Xuân Diệu va chạm với chủ nghĩa cộng sản có thể tính vào tháng Sáu năm 1942, khi tổng thư ký Đảng Cộng sản Đông Dương, Trường Chinh sáng tác bài thơ “Là thi sĩ” đề tặng tất cả các nhà thơ Việt Nam, có những dòng như sau:
Nếu “thi sĩ là ru với gió, Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” … Nếu thi sĩ nghĩa là đem gấm vóc Phủ lên trên xã hội đã điêu tàn, Véo von ca cho át tiếng kêu than Của nhân loại cần lao đang giãy giụa Thì bạn hỡi, một nhà thơ như rứa Là tai ương chướng họa của nhân quần,[26]
Được sáng tác trong lòng thành phố Hà Nội đang bị Nhật tạm chiếm, bài thơ của Trường Chinh kêu gọi các văn nghệ sĩ, bất kể theo hệ tư tưởng hay trường phái nào, hãy trút bỏ những mối quan tâm cá nhân và tiếp nhận sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đúng ra, Trường Chinh đã dẫn hai câu đầu tiên từ bài thơ “Cảm xúc” của Xuân Diệu viết năm 1938 để làm lời mở đầu cho bài “Là thi sĩ” của mình, dường như chính nhà thơ lãng mạn nổi tiếng đã tạo cảm hứng chủ đạo cho sáng tác của ông tổng bí thư.[27] Hai năm sau, vào năm 1944, Xuân Diệu bắt đầu mang văn tài của mình ra phục vụ cho Việt Minh – tổ chức công khai của Đảng Cộng sản Đông dương.[28] Đối với nhà thơ, cũng như một số trí thức khác đã nổi tiếng từ thời trước cách mạng, điều đó có nghĩa là làm việc trong Hội Văn hóa Cứu quốc và tờ báo văn hóa cách mạng Tiên Phong, được xuất bản ở Hà Nội trong thời kỳ Việt Minh nắm chính quyền, từ năm 1945 đến 1946. Với uy tín khá cao của Xuân Diệu, vừa là thi sĩ lãng mạn vừa có kinh nghiệm làm việc với tờ báo được coi là hàng đầu trong giai đoạn tiền cách mạng của nhóm Tự lực Văn đoàn, tờ Ngày Nay, việc ông được chọn làm thư ký tòa soạn (tên gọi cũ cho vị trí tổng biên tập) không làm ai ngạc nhiên. Tới cuối năm 1945, ông còn được chọn lựa để ra tranh cử vị trí đại biểu tỉnh Hải Dương trong kỳ bầu cử sắp tới của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tổ chức vào ngày 6 tháng Giêng năm 1946). Đương nhiên, ông – cũng như những ứng cử viên được đảng chọn khác, đã đắc cử trong kỳ bầu cử tại tỉnh và trở thành thành viên Quốc hội mới của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[29] Vào tháng Năm năm đó, Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng mời Xuân Diệu và một vài đại biểu Quốc hội khác cùng đi trong đoàn ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tới Fontainebleau để hội đàm với Pháp.
Khi những đoàn quân và xe tăng Pháp trở lại Hà Nội vào cuối năm 1946 để tái thiết chế độ thực dân ở Đông Dương, các thành viên Việt Minh đang làm việc ở thành phố phải tản cư ra vùng nông thôn. Đa số cán bộ Việt Minh tản ra ba hướng Bắc, Tây và Nam của đồng bằng sông Hồng để tránh hướng tấn công của Pháp từ Hải Phòng vào phía Đông Hà Nội. Đợt tiến công sau đó của quân Pháp cắt ngang Hà Nội, tiến về hướng Tây đã khiến Xuân Diệu và các trí thức khác (một số cùng đi với cả gia đình) phải liên tục di chuyển trong sáu tháng đầu của cuộc chiến. Tới giữa năm 1947, cuối cùng Xuân Diệu và văn hữu đã tìm được nơi sơ tán ở một ngôi làng nhỏ có tên là Gia Điền ở cực bắc tỉnh Phú Thọ. Ẩn giữa những dãy đồi có nhiều cây cối rậm rạp, làng Gia Điền là nơi trú ẩn lý tưởng và không bao lâu sau được chọn làm trụ sở cơ quan văn học kháng chiến.[30]
Tháng Ba năm 1948, Xuân Diệu cùng với các nhà văn khác ở Gia Điền bắt đầu xuất bản tạp chí văn hóa mới lấy tên là Văn Nghệ. Thực chất tạp chí này chỉ là sự tiếp nối, cộng với sự thể hiện tư tưởng Mác-Lê công khai hơn so với tờ Tiên Phong đang xuất bản ở Hà Nội trước khi Pháp quay lại. Bốn tháng sau, tức là tháng Bảy năm 1948, Xuân Diệu cùng với vài chục nhà trí thức cách mạng khác tham dự hai hội nghị quan trọng tổ chức tại Phú Thọ. Hội nghị thứ nhất là Hội nghị Văn hóa Toàn quốc lần thứ hai (từ ngày 16 đến ngày 20 tháng Bảy năm 1948), với việc thành lập Hội Văn hóa Việt Nam, nhưng sự kiện nổi tiếng nhất phải là bài diễn văn tại hội nghị này của Trường Chinh với nhan đề “Chủ nghĩa Mác và vấn đề Văn hóa Việt Nam”. Trong suốt bốn thập niên sau đó, lãnh đạo đảng luôn đề cao tác dụng của bài diễn văn này như một định hướng lý thuyết cho tất cả những người làm văn hóa. Ngày 23 tháng Bảy năm 1948, ba ngày sau khi kết thúc Đại hội Văn hóa Toàn quốc lần II, một hội nghị nhỏ hơn – Hội nghị Văn nghệ Toàn quốc, được tổ chức, dẫn đến sự ra đời của Hội Văn nghệ Việt Nam. Nhà thơ trẻ Xuân Diệu, lúc đó mới 32 tuổi, chắc rất hài lòng khi được chọn vào cơ quan điều hành quyền lực nhất của Hội, giữ ghế thành viên Ban thường vụ chỉ gồm năm người.[31]
Năm sau, tức là năm 1949, lãnh đạo đảng quyết định dời trụ sở cơ quan văn hóa về huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ngay gần an toàn khu của Trung ương Đảng đang đóng tại Định Hóa. Huyện Đại Từ – chỉ cách chỗ ở của các nhà lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp vài cây số về phía Nam, là nơi Xuân Diệu sinh sống trong suốt 5 năm cuối của cuộc kháng chiến. Ngày 5 tháng Mười một năm 1949, Hồ Chí Minh ký văn bản thông báo rằng tình hình mới – nhất là thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung Quốc – cho phép thành lập một đơn vị hành chính mới, trải rộng từ các tỉnh phía Bắc Hà Nội lên tới biên giới Trung Quốc. Vùng này sẽ được gọi là “Liên khu Việt Bắc”. Với trụ sở trung ương đảng đóng tại Thái Nguyên, đảm bảo đường kết nối với Trung Quốc – nguồn tiếp liệu chiến tranh chủ yếu của Việt Minh, Việt Bắc thực sự là đầu não của cuộc kháng chiến.[32]
Xuân Diệu được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam năm 1949, khi ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của Việt Minh đang tăng cao.[33] Mối quan hệ này, cộng với sự kiện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận về ngoại giao có vẻ đã khiến Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao nhất của Đảng Lao động Việt Nam mạnh dạn hơn và công khai thừa nhận tư tưởng Mác-Lê là nền tảng của đường lối lãnh đạo cách mạng. Kết quả của sự chuyển hướng này là việc áp dụng biện pháp chỉnh huấn của Liên Xô và Mao, một kỹ thuật cải tạo tư tưởng sử dụng “phê bình và tự phê bình” để chuẩn bị tinh thần cho cán bộ chính trị và chiến sĩ trước những nhiệm vụ cách mạng khó khăn.
Chính trong hai tối chỉnh huấn vào năm 1952, Xuân Diệu đã phải trả giá cho thói lang chạ đồng tính của mình và mất chiếc ghế ủy viên Ban Thường vụ Hội Văn nghệ. Nhà văn cách mạng Tô Hoài, một người tình của Xuân Diệu trong nhiều năm, hồi tưởng lại những buổi tối đó như sau:
“Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, những thằng Đại, thằng Đắc, Tô Sang và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, tất nhiên không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyết rũ, mình cũng điên kia mà, chứ có phải một mình Xuân Diệu đâu. Không nói cụ thể việc ấy, nhưng ai cũng to tiếng, to tiếng gay gắt, nghiêm trang phê phán “tư tưởng tư sản, tư tưởng tư sản xấu xa phải chừa đi.” Xuân Diệu nức nở nói đấy là tình trai của tôi… tình trai…” rồi nghẹn lời, nước mắt ứa ra, không hứa hẹn sửa chữa gì cả.”[34]
Theo Tô Hoài, sau khi Xuân Diệu bị truất ghế ủy viên Ban Thường vụ Hội Văn nghệ, “bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người có thì giờ chỉ chuyên đi và viết”.[35]
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng Năm năm 1954, tiếp theo là Hiệp định Geneva được ký kết hai tháng sau đó, chính xác là ngày 21 tháng Bảy năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc. Đối với Xuân Diệu và các văn nghệ sĩ Việt Minh khác, cùng với hầu hết các nhà lãnh đạo cách mạng ở Liên khu Việt Bắc, đã đến lúc rời chiến khu để trở về Hà Nội trong vai người chiến thắng, – nhưng phải xuất bản nốt số cuối của tờ Văn nghệ đã. Trong số tháng Mười này, Xuân Diệu đăng một lá thư gửi tất cả những nhà văn đã quyết định ở lại Hà Nội trong thời gian Pháp tạm chiếm. Lá thư thể hiện phong cách bút chiến đại ngôn lên gân mà Xuân Diệu thường sử dụng (phong cách này rõ ràng đã góp phần tạo cho Xuân Diệu được tiếng là người có lập trường tư tưởng vững vàng):
“Có những người vì hoàn cảnh nào đó mà làm cho địch, tiếng hát đã bán cho đài phát thanh địch, mà tâm hồn chảy máu không thôi. Muốn vùi đầu quên thân trong son phấn trăng hoa rượu tiệc, mà khuya về, tiếng nói của lương tâm, tiếng nói của văn nghệ chân chính không để cho mình nhắm mắt. Ta có phải là ta nữa không? Sao cổ họng, ngòi bút, tài năng của ta lại làm đồ dùng cho chiến tranh và xâm lược? Những người đau khổ ấy vẫn là bạn, vì tâm hồn văn nghệ vẫn sống dưới đáy lòng.”[36]
Dù văn nghệ sĩ Việt Nam bị chia cách bởi chiến tranh, và trong nhiều trường hợp, bởi quan điểm chính trị trái ngược, nhưng tình cảm đồng nghiệp giữa họ với nhau, có vẻ vẫn được duy trì, tuy có bị phai mòn. Nói cách khác, những người đã từng làm việc cho Pháp hay chỉ đơn thuần đã không làm gì để ủng hộ Việt Minh trong cuộc chiến cũng có thể tìm được cuộc sống mới dưới chế độ cộng sản. Tuy nhiên, đi cùng với vòng nguyệt quế mừng chiến thắng là những yêu cầu và điều kiện, mà Xuân Diệu đã giải thích với giọng thuyết giảng hùng biện đặc trưng:
“Văn nghệ đã căm thù quyết liệt cái thòng lọng đế quốc hung tàn. Quyết không một nét vẽ, một câu thơ, một bài văn, một tiếng đàn, một giọng hát, một màn kịch, một điệu múa nào cho địch! Quyết không bao giờ đem bông hoa sáng tạo vứt xuống bùn nhơ! Quyết không để cho cái tinh anh của con người mập mờ với xâm lăng và ngu tối! Mà trái lại, từ đây hơn bao giờ hết rạch ròi ranh giới, vạch rõ trắng đen giữa tà và chính, giữa giả và chân, giữa địch và TA! Đó là vấn đề sống chết của những con người văn nghệ.”[37]
Để ghi nhận những cống hiến của Xuân Diệu với cách mạng trong tám năm kháng chiến, lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam đã cấp cho ông và người bạn suốt đời của ông, Huy Cận, một nhà thơ nổi tiếng đồng thời là quan chức văn hóa cao cấp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một căn biệt thự Pháp rộng rãi trên phố Cột Cờ (nay là đường Điện Biên Phủ). Bất động sản cao cấp này có thể được coi như một tín hiệu của giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam rằng mọi nhu cầu vật chất của Xuân Diệu sẽ được quan tâm thỏa đáng nếu ông tiếp tục phục vụ sự nghiệp của họ một cách trung thành. Về nhu cầu tình cảm và sinh lý của nhà thơ, lãnh đạo đảng cũng cố gắng tạo điều kiện. Dù có quan điểm khắt khe và bảo thủ về hôn nhân và tình dục, họ cũng sẵn lòng làm ngơ cho trường hợp của Xuân Diệu, cho phép ông được sống chung một nhà với Huy Cận. Nhưng có lẽ đáng ghi nhận hơn là việc cả hai nhà thơ đều sống chung nhà với bà Ngô Xuân Như, người em gái cùng cha khác mẹ với Xuân Diệu và là vợ của Huy Cận. Cuộc hôn nhân của họ cho ra đời một người con trai vào năm 1957 và chỉ kéo dài thêm vài năm sau đó, rồi hai người chia tay. Huy Cận tái hôn năm 1964 và có thêm ba người con.[38]
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp sắp kết thúc, Xuân Diệu cũng đã thu xếp cho mẹ đẻ mình, lúc này đã già yếu, từ Quy Nhơn ra Hà Nội để tiện chăm sóc. Em trai nhà thơ, ông Ngô Xuân Huy, quyết định ở lại miền Nam, nơi ông hưởng một cuộc sống lặng lẽ với nghề viết văn độc lập dưới bút danh Tịnh Hà không mấy nổi tiếng.[39]
Trong kế hoạch tiếp quản Hà Nội, lãnh đạo đảng quyết định chuyển đổi tờ Văn Nghệ từ một nguyệt san có phần thô sơ về hình thức phát hành ở chiến khu, thành một tờ bán nguyệt san quy mô hơn – có thể sánh với các ấn bản văn hóa, trí thức của Hà Nội thời Pháp tạm chiếm. Một thay đổi nữa là ban điều hành tờ báo. Sau bốn năm để trống chức vụ thư ký toàn soạn chính thức của tờ báo, các lãnh đạo văn hóa của chế độ mới quyết định phục hồi vị trí này. Tương tự như trường hợp của tạp chí cách mạng xuất bản tại Hà Nội trước đây, tờ Tiên Phong (1945-1946), chức vụ này rơi vào tay Xuân Diệu. Có thể họ đã tính toán rằng, những nhà trí thức không theo cách mạng, nhiều người trong số đó đang cân nhắc xem có nên di cư vào Nam không, sẽ thấy yên tâm hơn khi tên tuổi nhà thơ lãng mạn nổi tiếng xuất hiện trên bìa ấn phẩm văn hóa quan trọng nhất của chế độ mới. (Trên thực tế, tên Xuân Diệu được in với cỡ chữ to gấp đôi tên các thành viên khác trong ban biên tập). Dù với lý do gì đi nữa, việc được bổ nhiệm vào vị trí thư ký tòa soạn tờ Văn Nghệ vào thời điểm bản lề hẳn có tác dụng như một thông điệp bảo đảm với nhà thơ rằng, dù gặp rắc rối vì quan hệ đồng tính luyến ái hai năm trước đó, tài năng và uy tín của ông trong lĩnh vực văn hóa vẫn được đánh giá cao trong chế độ mới mà nhà thơ đang phụng sự.
(còn tiếp)
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no.2, Summer 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Đông Hiến
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Chú thích
[1] Đảng Cộng sản Đông Dương (1931-1945) là tiền thân của Đảng Lao động Việt Nam (1951-1975) và Đảng Cộng sản Việt Nam (1976-nay).
[2] Mạc Đình, Tâm trạng của giới Văn nghệ ở miền Bắc (Sài gòn, 1956 – không rõ tên nhà xuất bản); P.J. Honey “The Revolt of the Intellectuals in North Vietnam” (Cuộc nổi dậy của các trí thức miền Bắc), The World Today 13, No.6 (June 1957): 250-260; Hoa Mai, biên tập, The “Nhân Văn” Affair [Vụ Nhân Văn] (Sài Gòn: The Vietnam Chapter of the Asian People’s Anti-Communist League, 1958); Hoàng Văn Chí, The New Class in North Vietnam [Giai cấp mới ở miền Bắc Việt Nam] (Sài Gòn: Công Dân, 1958); Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (Sài Gòn: Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn hóa, 1959); Như Phong “Intellectuals, Writers, and Artists,” (Trí thức, Văn sĩ và Nghệ sĩ) China Quarterly, no.9 (Jan-March 1962): 47-69; Hoàng Văn Chí, From Colonialism to Communism [Từ thực dân đến cộng sản] (London, Pall Mall Press, 1964; Hirohide Kurihara, “Changes in the Literary Policy of the Vietnamese Workers Party, 1956-1958” (Những thay đổi trong chính sách văn học của Đảng Lao động Việt Nam, 1956-1958) trong Indochina in the 1940s and 1950s, eds. Takashi Shiraishi and Motoo Furata (Ithaca, NY: Sotheast Asia Program Cornell University, 1992), (Nguyên bản tiếng Nhật của bài luận của Kurihara được đăng trên Journal of Asian and African Studies, 1988); Georges Boudarel, Cent fleurs ecloses dans la nuit du Vietnam: Communism et dissidence 1954-1956 [Trăm hoa vẫn nở trong đêm Việt Nam: Chủ nghĩa cộng sản và bất đồng chính kiến 1954-1956] (Paris: Editions Jacques Bertoin, 1991); Georges Boudarel “Intellectual Dissidence in the 1950s: The Nhan van-Giai pham Affair” [Trí thức bất đồng chính kiến trong thập niên 1950: Vụ Nhân văn-Giai phẩm], Phi Linh Baneth lược dịch từ tiếng Pháp, Vietnam Forum 13 (1990): 154-174; Kim Ninh, A World Transformed: The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam [Một thế giới đã hoán cải: Chính trị hóa văn hóa và cách mạng Việt Nam] (Ann Arbor: University of Michigan Press, 2002), chương 4 (Trí thức bất đồng chính kiến: Thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm); Nguyễn Ngọc Tuấn, “Socialist Realism in Vietnamese Literature: An Analysis of the Relationship between Literature and Politics” [Phương pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa trong Văn học Việt Nam: Phân tích mối quan hệ giữa Văn học và Chính trị] (luận án tiến sĩ, Trường Đại Học Victoria, 2004) chương 6 (Vụ Nhân Văn Giai Phẩm: Khủng hoảng giữa thời bình); Shawn McHale, “Vietnamese Maxism, Dissent, and the Politics of Postcolonial Memory: Tran Duc Thao, 1946-2003” (Chủ nghĩa Mác, Bất đồng chính kiến và Chính trị của Ký ức hậu thuộc địa ở Việt Nam: Trần Đức Thảo, 1946-2003), Journal of Asian Studies 61, no.1 (Feb, 2002): 7-31; Heinz Schutte, “Hundred Flowers in Vietnam, 1955-1957” (Trăm Hoa trên đất Việt, 1955-1957), bài trình bày tại hội thảo thường niên Hội Nghiên cứu Châu Á, New York, 28/3/2003; Nguyễn Võ Thu Hương, The Ironies of Freedom: Sex, Culture and Neoliberal Governance in Vietnam [Nghịch lý của tự do: Tình dục, văn hóa và cách quản lý tân tự do ở Việt Nam] (Seattle: University of Washington Press, 2008), chương 7 (Từ tinh thần bất phục đến người đàn bà quỳ).
[3] Boudarel, “Intellectual Dissidence”, 172.
[4] Bà Thụy Khuê, trí thức người Pháp gốc Việt đáng được ghi nhận đặc biệt vì đã thực hiện rất nhiều cuộc phỏng vấn với các nhân vật Nhân văn-Giai phẩm trong chương trình Văn học Nghệ thuật của đài RFI.
[5] Xuân Diệu, Huy Cận, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Như Phong, Nguyễn Công Hoan, Hoài Thanh, Tú Mỡ, Hồng Chương, và những người khác.
[6] Hoàng Văn Chí, Trăm Hoa, 148.
[7] Mạc Đình, Trăm Hoa, 12-13. Hoàng Văn Chí, From Colonialism to Communism, 230-231.
[8] Tất nhiên là sự so sánh này cũng có chỗ khập khiễng. Vào năm 1990, khi Boudarel viết cuốn sách này, ông đã có thành kiến với chủ nghĩa cộng sản trong khi Trotsky vào năm 1936 viết ở góc độ một tín đồ chân thực.
[9] Về thái độ cùng căm ghét Tố Hữu, xem Boudarel, Cent fleurs, 245. Về thái độ thù nghịch chủ nghĩa Mao-ít và sự mong muốn chế độ thực hiện những cam kết đã hứa, xem Boudarel “Intellectual Dissidence in the 1950s”, lần lượt ở các trang 154 và 164.
[10] Boudarel, Cent fleurs, 245.
[11] Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s”, 164-165. Trong Cent fleurs tác giả viết: “Xuân Diệu, cùng với người bạn chí thiết Huy Cận, có quan hệ rất tốt với Tố Hữu và những người phụ trách văn hóa của đảng – chỉ trích một người là động đến tất cả những người khác (trong bọn họ)”: 235.
[12] Hồ sơ về Xuân Diệu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III ghi ông gia nhập đảng năm 1949.
[13] Neil Jamieson, Understanding Vietnam (Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1993), 208-209.
[14] Sđd., 269.
[15] Schutte, “Hundred Flowers in Vietnam”, 6.
[16] Cả Trần Dần và Hoàng Cầm đều yêu những người phụ nữ Hà Nội mà theo quan điểm của đảng là xuất thân từ giai cấp bóc lột. Xem Kim Ninh, A World Transformed, 123-133. Chuyện tình của Lê Đạt được ít người biết đến hơn. Khi tham gia cải cách ruộng đất năm 1953, ông cưới một phụ nữ thuộc tầng lớp bần nông, rồi chẳng bao lâu sau bỏ bà để lấy một nữ diễn viên trẻ, việc này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín chính trị của ông.
[17] Trong tiếng Việt, văn nghệ là từ được ghép từ hai từ “văn học” và “nghệ thuật”. Nhưng cụm từ “văn nghệ” cũng có thể được hiểu theo nghĩa “văn hóa” – ví dụ như sáng tạo (hoặc quản lý) văn hóa/văn nghệ.
[18] Huy Phương, “Phát biểu về tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu”, Văn nghệ, số 126, 21-28/6/1956.
[19] Phan Khôi, “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, Giai phẩm Mùa thu tập 1, tháng 8/1956; Trần Công, “Chống bè phái trong văn nghệ”, Nhân Văn, sối 1, 20/9/1956; Nguyễn Bính, “Về giải thưởng văn học 1954-1955”, Trăm Hoa, số 1, tháng 10/1956.
[20] Dưới chính quyền Trần Trọng Kim năm 1945, tên Trường Bưởi Hà nội chính thức được đổi thành Trường Chu Văn An, và được giữ nguyên đến nay. Trường Quốc học Huế đã qua vài lần đổi tên. Khi người Pháp thành lập trường vào năm 1896, tên chính thức của trường là École primaire superieur, nhưng người Việt thường gọi là Trường Quốc học. Năm 1936, trường đổi tên thành Trường Trung học Khải Định. Năm 1955, lại đổi thành Trường Trung học Ngô Đình Diệm. Năm 1957, trường được trả lại tên cũ Quốc học, và được giữ nguyên đến nay. Như rất nhiều người đã biết, nhiều nhân vật chính trị quan trọng đã học qua hai trường này. Điểm qua danh sách cựu học sinh trường Bưởi có Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Đức Thảo, Dương Trung Quốc, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Đặng Thùy Trâm, Hoàng Ngọc Phách, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Khắc Viện, và nhiều người khác. Ở trường Quốc học Huế, có Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Lưu Trọng Lư, Huy Cận và Xuân Diệu. Chính trường Quốc học Huế là nơi Xuân Diệu gặp người tình suốt đời Huy Cận.
[21] Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam: 1932-1941 (Hà Nội: Nxb. Văn Học, 2005. Theo lời nhà xuất bản, đây là bản in lại nguyên tác do Nxb. Nguyễn Đức Phiên in năm 1942).
[22] Xuân Diệu, Thơ thơ và Gửi hương cho gió (Hà Nội, Nxb. Hội Nhà văn, 1995). Những ý kiến phê bình thơ Xuân Diệu có thể đọc được từ: Thanh Lãng, 13 năm tranh luận văn học, 1932-1945 (TP HCM: Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TP HCM, 1995).
[23] Đọc các bài viết, ví dụ như của Hà Minh Đức, Xuân Diệu: Ông hoàng của thơ tình yêu (Hà Nội: NXB Giáo dục, 2004).
[24] Nguyễn Quốc Vinh, “Deviant Bodies and Dynamics of Displacement of Homoerotic Desire in Vietnamese Literature from and about the French Colonial Period (1858-1954)” [Biến thái hình thể và những mâu thuẫn xung quanh chủ đề khát khao tình dục đồng tính trong và sau giai đoạn Pháp thuộc, 1858-1954], Hợp Lưu số 42, tháng 8-9, 41-53. Trong luận án tiến sĩ đang viết, Richard Trần dành một chương để bàn về tình yêu đồng giới của Xuân Diệu trong những năm tiền cách mạng.
[25] Kim Ninh, A World Transformed, 59.
[26] Sóng Hồng (Trường Chinh), Thơ (Hà Nội: Văn Học, 1966) 25-28.
[27] Một bài trên báo Công an Nhân dân ngày 7/2/2007 nhan đề “‘Là thi sĩ’ của Sóng Hồng phê phán ‘Cảm xúc’ của Xuân Diệu?” cho rằng Trường Chinh viết bài thơ ban đầu là để vận động một thư ký doanh trại lính Pháp rất yêu thơ tham gia cách mạng.
[28] Từ điển Văn học (Hà Nội: NXB Khoa Học Xã Hội, 1984), 604.
[29] Sau khi giành chính quyền tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương dành ra mấy tháng sau đó để truy tầm và xử tử vài ngàn người bị coi là phần tử chính trị nguy hiểm (nhất là đảng viên các đảng đối lập). Vì vậy, khó có thể tưởng tượng được rằng lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương nghiêm túc thực hiện “dân chủ đại diện” trong cuộc tổng tuyển cử tháng Giêng năm 1946. Không rõ Xuân Diệu, gốc Quy Nhơn quê Hà Tĩnh, có liên hệ cụ thể gì với tỉnh Hải Dương.
[30] “Đỗ Ngọc Dũng, “Kỷ Niệm 60 Năm Thành Lập Hội Văn nghệ Việt Nam: 25/7/1948-25/7/2008, 16/7/2008”. http://dodungart.vnweblogs.com/post/3574/80401 (truy cập ngày 5/5/2010)
[31] Sđd. Xuân Diệu phụ trách “tổ chức kiểm tra”. Trong bốn người còn lại, Nguyễn Tuân là Tổng thư ký, Tố Hữu Phó Tổng thư ký, Võ Đức Diên phụ trách kinh tế và Ngô Quang Châu làm quản trị.
[32] “Nghị quyết Hội Nghị Thống Nhất Hai Khu 1 và Khu 10: 5/11/49, Văn Kiện Đảng Toàn Tập (Hà Nội: Chính trị Quốc Gia, 2001), 10:427. Cần phân biệt “Việt Bắc” khác với “miền Bắc”, là khái niệm rộng hơn, dùng để chỉ 1 trong 3 kỳ thời Pháp thuộc, và sau Hiệp định Geneva 1954, chỉ một nửa đất nước tính từ phía bắc vĩ tuyến 17.
[33] Tịnh Hà, Xuân Diệu: Con người và Tác phẩm (Hà Nội: Văn Học, 1987), 11.
[34] Tô Hoài, Cát bụi chân ai (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1992), 198.
[35] Sđd, 199.
[36] Xuân Diệu, “Thư gửi các bạn văn nghệ ở Hà Nội”, Văn nghệ, số 56, tháng 10/1954.
[37] Sđd.
[38] Sau đó, Huy Cận lấy người vợ thứ hai, và cũng là cuối cùng, bà Trần Lệ Thu, giảng viên tiếng Nga, Đại học Ngoại ngữ vào năm 1964, khi bà 28 tuổi. Họ có với nhau ba người con.
[39] Sau năm 1975, hai anh em được đoàn tụ và cùng cộng tác trong một số dự án văn học.